Ung thư cổ tử cung
Tổng quan
Trên toàn cầu, ung thư cổ tử cung là loại ung thư phổ biến thứ tư ở phụ nữ, với khoảng 660.000 ca mới vào năm 2022. Trong cùng năm đó, khoảng 94% trong số 350.000 ca tử vong do ung thư cổ tử cung xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư cổ tử cung cao nhất là ở Châu Phi cận Sahara (SSA), Trung Mỹ và Đông Nam Á. Sự khác biệt theo khu vực về gánh nặng ung thư cổ tử cung có liên quan đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ tiêm chủng, sàng lọc và điều trị, các yếu tố nguy cơ bao gồm tỷ lệ nhiễm HIV và các yếu tố quyết định xã hội và kinh tế như giới tính, định kiến giới và nghèo đói. Phụ nữ sống chung với HIV có khả năng mắc ung thư cổ tử cung cao gấp 6 lần so với dân số nói chung và ước tính 5% trong số tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung là do HIV [1]. Ung thư cổ tử cung ảnh hưởng không cân xứng đến phụ nữ trẻ và kết quả là 20% trẻ em mất mẹ vì ung thư là do ung thư cổ tử cung [2].
Nguyên nhân
Virus u nhú ở người (HPV) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến có thể ảnh hưởng đến da, vùng sinh dục và cổ họng. Hầu như tất cả những người hoạt động tình dục đều sẽ bị nhiễm vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời, thường là không có triệu chứng. Trong hầu hết các trường hợp, hệ thống miễn dịch sẽ loại bỏ HPV khỏi cơ thể. Nhiễm trùng dai dẳng với HPV có nguy cơ cao có thể khiến các tế bào bất thường phát triển, sau đó trở thành ung thư.
Nhiễm trùng HPV dai dẳng ở cổ tử cung (phần dưới của tử cung hoặc tử cung, mở vào âm đạo – còn gọi là ống sinh) nếu không được điều trị, sẽ gây ra 95% ung thư cổ tử cung. Thông thường, phải mất 15–20 năm để các tế bào bất thường trở thành ung thư, nhưng ở những phụ nữ có hệ thống miễn dịch suy yếu, chẳng hạn như HIV không được điều trị, quá trình này có thể diễn ra nhanh hơn và mất 5–10 năm. Các yếu tố nguy cơ tiến triển ung thư bao gồm mức độ gây ung thư của loại HPV, tình trạng miễn dịch, sự hiện diện của các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, số lần sinh, tuổi mang thai lần đầu còn trẻ, sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết tố và hút thuốc.
Phòng ngừa
Nâng cao nhận thức của cộng đồng, tiếp cận thông tin và dịch vụ là chìa khóa để phòng ngừa và kiểm soát trong suốt cuộc đời.
- Tiêm vắc-xin ở độ tuổi 9–14 là một cách rất hiệu quả để ngăn ngừa nhiễm HPV, ung thư cổ tử cung và các loại ung thư liên quan đến HPV khác.
- Việc sàng lọc từ 30 tuổi (25 tuổi đối với phụ nữ nhiễm HIV) có thể phát hiện bệnh cổ tử cung, khi được điều trị cũng có thể ngăn ngừa ung thư cổ tử cung.
- Ở bất kỳ độ tuổi nào có triệu chứng hoặc lo ngại, phát hiện sớm kèm theo điều trị kịp thời có thể chữa khỏi ung thư cổ tử cung.
Tiêm vắc-xin HPV và các bước phòng ngừa khác
Tính đến năm 2023, có 6 loại vắc-xin HPV có sẵn trên toàn cầu. Tất cả đều bảo vệ chống lại các loại HPV nguy cơ cao là 16 và 18, gây ra hầu hết các loại ung thư cổ tử cung và đã được chứng minh là an toàn và hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhiễm HPV và ung thư cổ tử cung.
Ưu tiên hàng đầu là tiêm vắc-xin HPV cho tất cả các bé gái từ 9–14 tuổi trước khi các em bắt đầu hoạt động tình dục. Vắc-xin có thể được tiêm 1 hoặc 2 liều. Những người có hệ miễn dịch suy giảm lý tưởng nhất nên tiêm 2 hoặc 3 liều. Một số quốc gia cũng đã chọn tiêm vắc-xin cho bé trai để giảm thêm tỷ lệ mắc HPV trong cộng đồng và ngăn ngừa ung thư ở nam giới do HPV gây ra.
Những cách quan trọng khác để ngăn ngừa nhiễm HPV bao gồm:
- Không hút thuốc hoặc ngừng hút thuốc
- Sử dụng bao cao su
- Cắt bao quy đầu tự nguyện ở nam giới
Tầm soát và điều trị tiền ung thư cổ tử cung
Phụ nữ nên được sàng lọc ung thư cổ tử cung 5–10 năm một lần bắt đầu từ tuổi 30. Phụ nữ sống chung với HIV nên được sàng lọc 3 năm một lần bắt đầu từ tuổi 25. Chiến lược toàn cầu khuyến khích tối thiểu hai lần sàng lọc trong đời bằng xét nghiệm HPV hiệu suất cao ở độ tuổi 35 và một lần nữa ở độ tuổi 45. Tiền ung thư hiếm khi gây ra triệu chứng, đó là lý do tại sao việc sàng lọc ung thư cổ tử cung thường xuyên là quan trọng, ngay cả khi bạn đã được tiêm vắc-xin phòng ngừa HPV.
Việc tự lấy mẫu để xét nghiệm HPV, có thể là lựa chọn được phụ nữ ưa chuộng, đã được chứng minh là đáng tin cậy như mẫu do các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thu thập.
Sau khi xét nghiệm HPV dương tính (hoặc phương pháp sàng lọc khác), bác sĩ có thể tìm kiếm những thay đổi ở cổ tử cung (như tiền ung thư) có thể phát triển thành ung thư cổ tử cung nếu không được điều trị. Điều trị tiền ung thư là một thủ thuật đơn giản và ngăn ngừa ung thư cổ tử cung. Điều trị có thể được thực hiện trong cùng một lần khám (phương pháp tiếp cận khám và điều trị) hoặc sau lần xét nghiệm thứ hai (phương pháp tiếp cận khám, phân loại và điều trị), phương pháp này đặc biệt được khuyến nghị cho phụ nữ sống chung với HIV.
Điều trị tiền ung thư nhanh chóng và thường không đau, ít gây biến chứng. Các bước điều trị bao gồm soi cổ tử cung hoặc kiểm tra trực quan cổ tử cung để xác định vị trí và đánh giá tổn thương, sau đó là:
- Phương pháp đốt nhiệt, bao gồm việc sử dụng đầu dò được làm nóng để đốt cháy tế bào;
- Liệu pháp lạnh, bao gồm việc sử dụng đầu dò lạnh để đóng băng các tế bào;
- LEETZ (cắt bỏ vòng lớn vùng chuyển đổi), bao gồm việc loại bỏ các mô bất thường của bạn bằng một vòng được làm nóng bằng điện; và/hoặc
- Sinh thiết hình nón, bao gồm việc sử dụng dao để loại bỏ một mảng mô hình nón.
Phát hiện sớm, chẩn đoán và điều trị ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung có thể chữa khỏi nếu được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn đầu của bệnh. Nhận biết các triệu chứng và tìm kiếm lời khuyên y tế để giải quyết bất kỳ mối quan tâm nào là một bước quan trọng. Phụ nữ nên đến gặp chuyên gia chăm sóc sức khỏe nếu họ nhận thấy:
- Chảy máu bất thường giữa các kỳ kinh, sau khi mãn kinh hoặc sau khi quan hệ tình dục
- Tăng tiết dịch âm đạo hoặc có mùi hôi
- Các triệu chứng như đau dai dẳng ở lưng, chân hoặc xương chậu
- Giảm cân, mệt mỏi và chán ăn
- Khó chịu ở âm đạo
- Sưng ở chân
Đánh giá lâm sàng và xét nghiệm để xác nhận chẩn đoán rất quan trọng và thường sẽ được theo sau bằng việc giới thiệu các dịch vụ điều trị, có thể bao gồm phẫu thuật, xạ trị và hóa trị cũng như chăm sóc giảm nhẹ để cung cấp dịch vụ chăm sóc hỗ trợ và kiểm soát cơn đau.
Các lộ trình quản lý chăm sóc ung thư xâm lấn là những công cụ quan trọng để đảm bảo bệnh nhân được chuyển đến kịp thời và được hỗ trợ khi họ thực hiện các bước chẩn đoán và đưa ra quyết định điều trị. Các đặc điểm của dịch vụ chăm sóc chất lượng bao gồm:
- Một nhóm đa chuyên khoa đảm bảo chẩn đoán và phân loại (xét nghiệm mô học, bệnh lý, hình ảnh) được thực hiện trước khi đưa ra quyết định điều trị;
- Quyết định điều trị phù hợp với hướng dẫn quốc gia; và
- Các biện pháp can thiệp được hỗ trợ bởi sự chăm sóc toàn diện về tâm lý, tinh thần, thể chất và giảm nhẹ.
Khi các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình mở rộng sàng lọc cổ tử cung, nhiều trường hợp ung thư cổ tử cung xâm lấn sẽ được phát hiện, đặc biệt là ở những nhóm dân số chưa được sàng lọc trước đó. Do đó, các chiến lược chuyển tuyến và quản lý ung thư cần được triển khai và mở rộng cùng với các dịch vụ phòng ngừa.
Phản ứng của WHO
Tất cả các quốc gia đã cam kết loại trừ ung thư cổ tử cung như một vấn đề sức khỏe cộng đồng. Chiến lược toàn cầu của WHO định nghĩa loại trừ là giảm số ca mới hàng năm xuống còn 4 hoặc ít hơn trên 100.000 phụ nữ và đặt ra ba mục tiêu cần đạt được vào năm 2030 để đưa tất cả các quốc gia vào con đường loại trừ trong những thập kỷ tới:
- 90% trẻ em gái được tiêm vắc-xin HPV trước 15 tuổi
- 70% phụ nữ được sàng lọc bằng xét nghiệm chất lượng cao ở độ tuổi 35 và 45
- 90% phụ nữ mắc bệnh cổ tử cung được điều trị.
Mô hình ước tính rằng có thể ngăn ngừa được 74 triệu ca ung thư cổ tử cung mới và có thể tránh được 62 triệu ca tử vong vào năm 2120 bằng cách đạt được mục tiêu loại trừ này. Khám phá kho lưu trữ kiến thức về ung thư cổ tử cung để biết các nguồn tài nguyên từ WHO, các cơ quan của Liên hợp quốc và các đối tác khác: Sáng kiến loại trừ ung thư cổ tử cung.
Phòng ngừa tiền ung thư và ung thư liên quan đến HPV cũng là một yếu tố quan trọng trong Chiến lược y tế toàn cầu của WHO về HIV, viêm gan và các bệnh lây truyền qua đường tình dục 2022 – 2030 và Nghị quyết WHA74.5 (2021) của Đại hội đồng Y tế Thế giới về sức khỏe răng miệng bao gồm các hành động về ung thư miệng và họng.
Tài liệu Tham khảo:
- Stelze, Dominik et al. Estimates of the global burden of cervical cancer associated with HIV. The Lancet. 2020. https://doi.org/10.1016/S2214-109X(20)30459-9
- Guida, F., Kidman, R., Ferlay, J. et al. Global and regional estimates of orphans attributed to maternal cancer mortality in 2020. Nat Med 28, 2563–2572 (2022). https://doi.org/10.1038/s41591-022-02109-2