THÀNH PHẦN BỊ CẤM TRONG THỰC PHẨM BỔ SUNG TRONG THỂ THAO
Các vận động viên cần
lượng calo, chất lỏng, carbohydrate hàng ngày đầy đủ (để duy trì lượng đường
trong máu và thay thế glycogen cơ; thường là 1,4 đến 4,5 g/lb trọng lượng cơ
thể [3 đến 10 g/kg trọng lượng cơ thể]), protein (0,55 đến 0,9 g/lb trọng lượng
cơ thể [1,2 đến 2,0 g/kg trọng lượng cơ thể]), chất béo (20% đến 35% tổng lượng
calo) và vitamin và khoáng chất. Các vận động viên tham gia các hoạt động sức
bền kéo dài hơn một giờ hoặc được thực hiện trong môi trường khắc nghiệt (ví
dụ: nhiệt độ cao hoặc độ cao lớn) có thể cần thay thế chất lỏng và chất điện
giải đã mất và tiêu thụ thêm carbohydrate để lấy năng lượng. Ngay cả khi có chế
độ dinh dưỡng hợp lý, kết quả của việc sử dụng bất kỳ loại thực phẩm bổ sung
nào để tập thể dục và hiệu suất thể thao cũng khác nhau tùy theo mức độ tập
luyện; bản chất, cường độ và thời lượng của hoạt động; và điều kiện môi trường.
Hầu hết các nghiên cứu
đánh giá giá trị tiềm năng và tính an toàn của các chất bổ sung để tăng cường
hiệu suất tập thể dục và thể thao chỉ bao gồm các vận động viên có thể lực tốt.
Do đó, thường không rõ liệu các chất bổ sung được thảo luận trong tờ thông tin
này có thể có giá trị đối với những người tập thể dục giải trí hay những cá
nhân chỉ thỉnh thoảng tham gia hoạt động thể thao hay không. Ngoài ra, phần lớn
nghiên cứu về các chất bổ sung này liên quan đến người lớn tuổi (thường là nam
nhiều hơn nữ) chứ không phải thanh thiếu niên, những người cũng có thể sử dụng
chúng trái với lời khuyên của các hiệp hội chuyên môn. Chất lượng của nhiều
nghiên cứu bị hạn chế bởi mẫu nhỏ và thời gian ngắn, sử dụng các bài kiểm tra
hiệu suất không mô phỏng các điều kiện thực tế hoặc không đáng tin cậy hoặc
không liên quan, và kiểm soát kém các biến gây nhiễu.
Phần này cung cấp các
ví dụ về các thành phần mà FDA hiện đang cấm trong các chất bổ sung chế độ ăn
uống và một số người tiêu dùng đã từng sử dụng như chất hỗ trợ tăng cường sức
mạnh, mặc dù thiếu bằng chứng chứng minh việc sử dụng chúng.
1. Androstenedione là
tiền chất steroid đồng hóa, hoặc prohormone, mà cơ thể chuyển đổi thành
testosterone (kích thích tăng trưởng cơ) và estrogen. Cầu thủ bóng chày chuyên
nghiệp Mark McGwire đã phổ biến androstenedione như một chất hỗ trợ tăng cường
sinh lực vào năm 1998. Tuy nhiên, hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên không tìm
thấy lợi ích về hiệu suất từ các chất bổ sung androstenedione. Trong một
nghiên cứu, 10 thanh niên khỏe mạnh (tuổi 19–29) đã dùng một liều
androstenedione 100 mg duy nhất. 20 người khác được phân ngẫu nhiên để dùng
androstenedione 300 mg/ngày hoặc giả dược trong 6 trong số 8 tuần trong khi
thực hiện các bài tập tăng cường sức bền và tăng cường cơ bắp. Việc sử dụng
chất bổ sung trong thời gian ngắn hoặc dài hạn không ảnh hưởng đến nồng độ
testosterone trong huyết thanh, cũng không tạo ra bất kỳ mức tăng đáng kể nào
về hiệu suất tập luyện sức bền, sức mạnh cơ bắp hoặc khối lượng cơ nạc. Tuy
nhiên, những người tham gia dùng androstenedione trong 6 tuần đã giảm đáng kể
nồng độ cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL) và tăng đáng kể nồng độ
estrogen trong huyết thanh. Một nghiên cứu tương tự đã phân ngẫu nhiên 50 nam
giới (tuổi 35–65) dùng 200 mg/ngày androstenedione, 200 mg/ngày androstenediol
có liên quan hoặc giả dược trong 12 tuần trong khi tham gia chương trình tập luyện
sức bền cường độ cao. Các chất bổ sung không cải thiện sức mạnh cơ bắp hoặc
khối lượng cơ nạc của người tham gia so với giả dược, nhưng chúng làm giảm đáng
kể nồng độ cholesterol HDL và tăng nồng độ estrogen trong huyết thanh. Trong số
những người tham gia dùng androstenedione, nồng độ testosterone tăng đáng kể
16% sau 1 tháng sử dụng nhưng giảm xuống mức trước khi điều trị sau 12 tuần,
một phần là do quá trình tổng hợp testosterone nội sinh bị ức chế.
2. Dimethylamylamine
(DMAA) là một chất kích thích trước đây có trong một số loại thực phẩm bổ sung
trước khi tập luyện và các loại thực phẩm bổ sung khác được cho là có tác dụng
tăng cường hiệu suất tập luyện và xây dựng cơ bắp. Các nghiên cứu chưa đánh giá
DMAA ở người như một chất hỗ trợ sinh lực tiềm năng. Năm 2013, FDA đã tuyên bố các
sản phẩm có chứa thành phần này là bất hợp pháp sau khi nhận được 86 báo cáo về
các ca tử vong và bệnh tật liên quan đến các loại thực phẩm bổ sung có chứa
DMAA. Các báo cáo này mô tả các vấn đề về tim cũng như các rối loạn về hệ thần
kinh và tâm thần. Hơn nữa, FDA chưa bao giờ chấp thuận DMAA là một thành phần
dinh dưỡng mới mà có thể được cho là an toàn. Mặc dù các sản phẩm được tiếp thị
dưới dạng thực phẩm bổ sung có chứa DMAA là bất hợp pháp tại Hoa Kỳ, nhưng các
sản phẩm đã ngừng sản xuất, được cải tiến hoặc thậm chí là các sản phẩm mới có
chứa DMAA vẫn có thể được tìm thấy trên thị trường Hoa Kỳ. Trung tâm Tài nguyên
Hiệu suất Con người của Bộ Quốc phòng duy trì danh sách các sản phẩm hiện có
chứa DMAA hoặc được dán nhãn là có chứa DMAA, 1-3-dimethylamylamine hoặc tên
hóa học hoặc tên tiếp thị tương đương (ví dụ: methylhexaneamine hoặc chiết xuất
từ cây phong lữ).
3. Ephedra (còn được
gọi là ma hoàng), một loại cây có nguồn gốc từ Trung Quốc, chứa ancaloit
ephedrine, là hợp chất kích thích; ancaloit chính là ephedrine. Vào những năm
1990, ephedra—thường được kết hợp với caffeine—là một thành phần phổ biến trong
các chất bổ sung chế độ ăn uống được bán để tăng cường hiệu suất tập thể dục và
thể thao và thúc đẩy giảm cân. Không có nghiên cứu nào đánh giá việc sử dụng
chất bổ sung chế độ ăn uống ephedra, có hoặc không có caffeine, như một chất hỗ
trợ sinh lực. Thay vào đó, các nghiên cứu hiện có đã sử dụng hợp chất tổng hợp
liên quan ephedrine cùng với caffeine và thường đo lường tác dụng 1–2 giờ sau
một liều duy nhất. Các nghiên cứu này cho thấy sự kết hợp ephedrine-caffeine
tạo ra sự gia tăng 20%–30% về sức mạnh và sức bền, nhưng riêng ephedrine không
có tác dụng đáng kể nào đối với các thông số về hiệu suất tập thể dục, chẳng
hạn như tiêu thụ oxy hoặc thời gian đến khi kiệt sức. Không có dữ liệu nào cho
thấy bất kỳ sự cải thiện bền vững nào về hiệu suất thể thao theo thời gian khi
tiếp tục dùng liều ephedrine với caffeine. Việc sử dụng ephedra có liên quan
đến tử vong và các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm buồn nôn, nôn mửa, các
triệu chứng tâm thần (như lo lắng và thay đổi tâm trạng), tăng huyết áp, hồi
hộp, đột quỵ, co giật và đau tim. Năm 2004, FDA đã cấm bán các chất bổ sung chế
độ ăn uống có chứa ephedrine alkaloid tại Hoa Kỳ vì chúng có liên quan đến nguy
cơ mắc bệnh hoặc thương tích không hợp lý. Cơ quan Chống Doping Thế giới cấm sử
dụng ephedrine với số lượng dẫn đến nồng độ ephedrine trong nước tiểu (hoặc
methylephedrine liên quan) vượt quá 10 mcg/ml.