BỆNH EBOLA (EBOD)
Tổng quan
Bệnh Ebola (EBOD) là một căn bệnh hiếm gặp nhưng rất nghiêm
trọng ở người (1) . Bệnh thường gây tử vong.
Bệnh Ebola là do vi-rút thuộc chi Orthoebolavirus thuộc họ filoviridae
gây ra (2) . Cho đến nay, sáu loài Orthoebolavirus đã được xác định,
trong đó có ba loài được biết là gây ra các đợt bùng phát lớn:
- Virus
Ebola (EBOV) gây ra bệnh do virus Ebola (EVD)
- Virus
Sudan (SUDV) gây ra bệnh virus Sudan (SVD)
- Virus
Bundibugyo (BDBV) gây bệnh do virus Bundibugyo (BVD).
Bệnh Ebola lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1976 trong hai đợt
bùng phát đồng thời: một đợt bùng phát do virus Sudan ở Nzara, nay thuộc Nam
Sudan, và đợt bùng phát còn lại do virus Ebola ở Yambuku, nay thuộc Cộng hòa
Dân chủ Congo. Đợt bùng phát thứ hai xảy ra tại một ngôi làng gần sông Ebola,
và căn bệnh này được đặt tên theo sông này.
Mặc dù đã có vắc-xin và phương pháp điều trị được cấp phép
cho bệnh do virus Ebola, nhưng chưa có vắc-xin hoặc phương pháp điều trị nào được
phê duyệt cho các bệnh Ebola khác, chẳng hạn như SVD hoặc BVD. Các sản phẩm ứng
viên đang được phát triển.
Chăm sóc hỗ trợ chuyên sâu sớm, bao gồm bù nước và điều trị
các triệu chứng cụ thể, có thể cải thiện khả năng sống sót. Việc tìm kiếm sự
chăm sóc sớm có thể cứu sống bệnh nhân.
Quá trình lây truyền
Người ta cho rằng dơi ăn quả thuộc họ Pteropodidae là
vật chủ tự nhiên của Orthoebolavirus. Virus này có thể xâm nhập vào cơ thể người
khi con người tiếp xúc gần với máu, dịch tiết, nội tạng hoặc các dịch cơ thể khác
của động vật bị nhiễm bệnh như dơi ăn quả, tinh tinh, khỉ đột, khỉ, linh dương
rừng hoặc nhím bị bệnh hoặc chết, hoặc trong rừng nhiệt đới.
Mọi người có thể bị nhiễm vi-rút từ người khác thông qua tiếp
xúc trực tiếp (qua da bị trầy xước hoặc niêm mạc) với:
- Máu
hoặc dịch cơ thể của người bị bệnh hoặc đã chết vì bệnh Ebola; và
- Các
vật thể hoặc bề mặt bị nhiễm dịch cơ thể (như máu, phân, chất nôn) từ người
mắc bệnh hoặc người đã chết vì bệnh.
Con người không thể truyền bệnh trước khi có triệu chứng và
họ vẫn có khả năng lây nhiễm miễn là máu của họ còn chứa vi-rút.
Nhân viên y tế và chăm sóc sức khỏe thường xuyên bị nhiễm bệnh
trong quá trình điều trị bệnh nhân mắc bệnh Ebola. Điều này xảy ra do tiếp xúc
gần với bệnh nhân khi các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm không được thực hiện
nghiêm ngặt.
Các nghi lễ chôn cất có tiếp xúc trực tiếp với thi thể người
đã chết cũng có thể góp phần làm lây truyền bệnh Ebola.
Triệu chứng
Thời gian ủ bệnh hoặc khoảng thời gian từ khi nhiễm trùng đến
khi xuất hiện triệu chứng thay đổi từ 2 đến 21 ngày.
Các triệu chứng của bệnh Ebola có thể xuất hiện đột ngột,
bao gồm sốt, mệt mỏi, khó chịu, đau cơ, đau đầu và đau họng. Tiếp theo là nôn mửa,
tiêu chảy, đau bụng, phát ban và các triệu chứng suy giảm chức năng thận và
gan. Điều quan trọng là nhân viên y tế và chăm sóc sức khỏe phải luôn cảnh giác
với những triệu chứng này.
Mặc dù chảy máu được cho là một triệu chứng phổ biến, nhưng
triệu chứng này ít gặp hơn và có thể xảy ra muộn hơn trong quá trình phát triển
bệnh. Một số bệnh nhân có thể bị chảy máu trong và ngoài, bao gồm máu trong chất
nôn và phân, chảy máu mũi, nướu răng và âm đạo. Chảy máu tại vị trí kim đâm vào
da cũng có thể xảy ra.
Tác động lên hệ thần kinh trung ương có thể dẫn đến tình trạng
lú lẫn, cáu kỉnh và hung hăng.
Chẩn đoán
Có thể khó phân biệt lâm sàng bệnh Ebola với các bệnh truyền
nhiễm khác như sốt rét, sốt thương hàn, bệnh lỵ trực khuẩn, viêm màng não và
các bệnh sốt xuất huyết do virus khác vì các triệu chứng ở giai đoạn đầu của bệnh
rất giống nhau.
Xác nhận một người bị nhiễm Orthoebolavirus được thực hiện bằng
các phương pháp chẩn đoán sau:
- xét
nghiệm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR)
- xét
nghiệm miễn dịch hấp thụ liên kết với enzyme kháng thể (ELISA)
- xét
nghiệm phát hiện kháng nguyên bắt giữ
- phân
lập virus bằng nuôi cấy tế bào.
Mẫu bệnh phẩm thu thập từ bệnh nhân có nguy cơ gây nguy hiểm
sinh học cực kỳ cao; xét nghiệm trong phòng thí nghiệm trên các mẫu chưa bất hoạt
nên được tiến hành trong điều kiện bảo quản sinh học tối đa. Tất cả các mẫu bệnh
phẩm sinh học chưa bất hoạt nên được đóng gói bằng hệ thống đóng gói ba lớp khi
vận chuyển trong nước và quốc tế.
Sự đối đãi
Trong nhiều năm qua, WHO và các đối tác đã xây dựng hướng dẫn và
đào tạo, phác thảo cách thức cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt nhất có thể cho bệnh
nhân và tăng cơ hội sống sót, bất kể có áp dụng các phương pháp điều trị cụ thể
hay không. Được gọi là chăm sóc hỗ trợ tối ưu, hướng dẫn này bao gồm các xét
nghiệm cần thực hiện, cách kiểm soát cơn đau, dinh dưỡng và các bệnh đồng nhiễm
(như sốt rét), cùng các phương pháp khác giúp bệnh nhân phục hồi tốt nhất.
Đối với bệnh do virus Ebola, WHO đã đưa ra khuyến
cáo mạnh mẽ về việc điều trị bằng mAb114 (ansuvimab ™ )
hoặc REGN-EB3 (Inmazeb ™ ), cả hai đều là kháng thể đơn
dòng. Đối với các bệnh Ebola khác, chẳng hạn như SVD hoặc BVD, hiện chưa có liệu
pháp điều trị nào được phê duyệt, nhưng
các sản phẩm tiềm năng đang được phát triển và một giao
thức CORE cho các thử nghiệm lâm sàng đã có sẵn.
Vắc-xin
Đối với bệnh do virus Ebola:
- Hai
loại vắc-xin đã được phê duyệt: Ervebo (Merck & Co.) và Zabdeno và
Mvabea (Janssen Pharmaceutica). Vắc-xin Ervebo được khuyến nghị sử dụng
như một phần của biện pháp ứng phó với dịch bệnh, xem khuyến nghị
của SAGE tháng 7 năm 2024.
- Trong
trường hợp dịch bệnh do virus Ebola được xác nhận bùng phát, vắc-xin
Ervebo có thể được tiếp cận thông qua Nhóm điều phối
quốc tế về cung cấp vắc-xin.
- Để
tiêm chủng phòng ngừa cho nhân viên y tế và tuyến đầu, có thể yêu cầu tiêm
vắc-xin Ervebo thông qua Chương trình tiêm chủng
phòng ngừa Ebola của Gavi .
Đối với các bệnh Ebola khác, chẳng hạn như SVD:
- Một
số loại vắc-xin ứng viên đang ở các giai đoạn phát triển khác
nhau.
- Là một
phần của phản ứng với dịch bệnh, một giao
thức CORE nhằm
đánh giá tính an toàn, khả năng dung nạp, khả năng sinh miễn dịch và hiệu
quả của các ứng cử viên vắc-xin đã có sẵn.
Phòng ngừa và kiểm soát
Sự tham gia của cộng đồng là chìa khóa để kiểm soát thành công
bất kỳ đợt bùng phát nào. Việc kiểm soát dịch bệnh phụ thuộc vào việc sử dụng một
loạt các biện pháp can thiệp, chẳng hạn như chăm sóc lâm sàng, giám sát và truy
vết tiếp xúc, dịch vụ xét nghiệm, phòng ngừa và kiểm soát nhiễm trùng tại các
cơ sở y tế, chôn cất an toàn và trang trọng, tiêm chủng (chỉ dành cho bệnh do
virus Ebola) và huy động xã hội.
Nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ và các biện pháp bảo
vệ mà cá nhân có thể thực hiện là một cách hiệu quả để giảm lây truyền giữa người
với người. Thông điệp giảm thiểu nguy cơ nên tập trung vào một số yếu tố sau:
- Giảm
nguy cơ lây truyền từ động vật hoang dã sang người thông qua tiếp xúc với
dơi ăn quả hoặc khỉ/vượn bị nhiễm bệnh và ăn thịt sống của chúng.
- Giảm
nguy cơ lây truyền từ người sang người do tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc
gần với người nhiễm bệnh, đặc biệt là với dịch cơ thể của họ. Cần tránh tiếp
xúc gần với bệnh nhân Ebola. Bệnh nhân nên được cách ly tại một trung tâm
điều trị được chỉ định để được chăm sóc sớm và tránh lây truyền tại nhà.
- Cộng
đồng cần được cung cấp đầy đủ thông tin về bản thân căn bệnh
cũng như cách kiểm soát dịch bệnh. Điều này đạt hiệu quả tốt nhất khi họ
tham gia vào quá trình ứng phó và có sự thảo luận cởi mở.
- Các
biện pháp ngăn chặn dịch bệnh bao gồm chôn
cất an toàn và trang trọng người đã khuất , xác định những người
có thể đã tiếp xúc với người nhiễm bệnh Ebola và theo dõi sức khỏe của họ
trong 21 ngày, cách ly người khỏe mạnh khỏi người bệnh để ngăn ngừa lây
lan và chăm sóc những bệnh nhân đã được xác nhận. Việc duy trì vệ sinh tốt
và môi trường sạch sẽ cũng rất quan trọng.
Kiểm soát nhiễm trùng trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe
Nhân viên y tế nên luôn thực hiện các
biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn khi chăm sóc bệnh nhân, bất kể chẩn
đoán ban đầu của họ là gì. Các biện pháp này bao gồm vệ sinh tay cơ bản, vệ
sinh hô hấp, sử dụng thiết bị bảo hộ cá nhân (để ngăn chặn các giọt bắn hoặc tiếp
xúc khác với vật liệu bị nhiễm bệnh), thực hành tiêm chích an toàn và thực hành
chôn cất an toàn và trang nghiêm.
Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã xác nhận
mắc bệnh Ebola phải áp dụng các biện pháp kiểm soát nhiễm trùng bổ sung để ngăn
ngừa tiếp xúc với máu và dịch cơ thể của bệnh nhân cũng như các bề mặt hoặc vật
liệu bị nhiễm bẩn như quần áo và khăn trải giường.
Nhân viên phòng thí nghiệm cũng có nguy cơ. Các mẫu lấy từ
người và động vật để xét nghiệm nhiễm Orthoebolavirus phải được xử lý bởi nhân
viên được đào tạo và trong các phòng thí nghiệm được trang bị phù hợp.
Chăm sóc cho những người sống sót
Tất cả những người sống sót, bạn đời và gia đình của họ cần
được tôn trọng, đối xử tôn trọng và cảm thông. WHO không khuyến cáo cách ly những
bệnh nhân đã hồi phục có kết quả xét nghiệm máu âm tính với Orthoebolavirus. Những
người sống sót có thể phải chịu đựng cả di chứng lâm sàng và tâm lý. WHO khuyến
khích các quốc gia bị ảnh hưởng xem xét việc thiết
lập chương trình chăm sóc để giảm thiểu di chứng, hỗ trợ tái hòa nhập
cộng đồng, tư vấn và xét nghiệm sinh học.
Orthoebolavirus được biết là vẫn tồn tại ở những vị trí miễn
dịch đặc hiệu ở một số người đã hồi phục. Những vị trí này bao gồm tinh hoàn,
bên trong mắt và não. Bệnh có triệu chứng tái phát mà không tái nhiễm ở người
đã hồi phục sau bệnh Ebola rất hiếm gặp nhưng đã được ghi nhận. Nguyên nhân của
hiện tượng này vẫn chưa được hiểu đầy đủ.
Việc lây truyền virus Ebola qua tinh dịch bị nhiễm bệnh đã
được ghi nhận đến tận mười lăm tháng sau khi bệnh nhân hồi phục lâm sàng. Để giảm
thiểu nguy cơ lây truyền này, cần triển khai chương trình xét nghiệm tinh dịch
để:
- cung
cấp tư vấn cho những người đàn ông sống sót và bạn tình của họ để thông
báo cho họ về những rủi ro tiềm ẩn và hỗ trợ họ tuân thủ các
biện pháp tình dục an toàn hơn (bao gồm cung cấp bao cao su và vệ
sinh tay và cá nhân sạch sẽ);
- cung
cấp xét nghiệm tinh dịch hàng tháng cho đến khi họ có hai kết quả xét nghiệm
âm tính liên tiếp; và
- Sau
hai lần xét nghiệm âm tính liên tiếp, những người sống sót có thể tiếp tục
quan hệ tình dục bình thường một cách an toàn với nguy cơ lây truyền
vi-rút ở mức tối thiểu.
Trong trường hợp không có chương trình xét nghiệm tinh dịch,
nam giới sống sót nên thực hiện các biện pháp tình dục an toàn trong 12 tháng.
Orthoebolavirus có thể tồn tại trong nhau thai, nước ối và
thai nhi của phụ nữ bị nhiễm bệnh trong khi mang thai, và trong sữa mẹ của phụ
nữ đang cho con bú bị nhiễm virus. Các chương trình chăm sóc người sống sót nên
bao gồm việc chăm sóc cho phụ nữ mang thai và cho con bú sau khi họ hồi phục.
Phản ứng của WHO
WHO hợp tác với các quốc gia để ngăn ngừa dịch Ebola bùng phát
bằng cách duy trì giám sát và hỗ trợ các quốc gia có nguy cơ cao xây dựng kế hoạch
phòng ngừa. Tài liệu sau đây cung cấp hướng dẫn chung về kiểm soát dịch Ebola
và Marburg: Dịch bệnh
do virus Ebola và Marburg: chuẩn bị, cảnh báo, kiểm soát và đánh giá
Khi phát hiện ổ dịch, WHO sẽ phản ứng bằng cách hỗ trợ ứng
phó ổ dịch, phát hiện bệnh, gắn kết cộng đồng, truy vết tiếp xúc, tiêm chủng,
thử nghiệm vắc-xin và phương pháp điều trị, quản lý ca bệnh, dịch vụ xét nghiệm,
kiểm soát nhiễm trùng, hậu cần, đào tạo và hỗ trợ các biện pháp chôn cất an
toàn và trang trọng.
Tài liệu tham khảo:
1.
International Classification of Disease, ICD-11,
2024 : International
Classification of Diseases (ICD)
2.
International Committee on Virus Taxonomy,
ICTV : https://ictv.global/report/chapter/filoviridae/filoviridae/orthoebolavirus
Link bài viết gốc: https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/ebola-disease