BẬC THANG TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM MŨI DỊ ỨNG
I. Quản lý viêm mũi dị ứng
1. Tránh các tác nhân dị ứng
Mạt bụi nhà
Mạt bụi nhà là
tác nhân gây dị ứng phổ biến trong viêm mũi dị ứng. Giảm tiếp xúc với mạt bụi
nhà thông qua các biện pháp vật lý và hóa học giúp kiểm soát các triệu chứng bệnh
và nâng cao chất lượng cuộc sống. Các biện pháp vật lý bao gồm: sưởi ấm, thông
gió, màng lọc không khí, sử dụng máy hút bụi. Biện pháp hóa học có thể kể đến
là sử dụng chất tẩy rửa gia dụng acaricide để giảm nồng độ mạt bụi nhà. Ngoài
ra sử dụng thuốc diệt bọ ve, thuốc diệt côn trùng cũng mang lại những hiệu quả
đáng kể. Các tác dụng phụ được báo cáo là không đáng kể và lợi ích vượt xa nguy
cơ.
Gián
Gián là một
trong những tác nhân hàng đầu gây viêm mũi dị ứng. Để kiểm soát nồng độ chất
gây dị ứng do gián, cần giáo dục các biện pháp dọn dẹp vệ sinh và bịt kín các vết
hứt, kẽ hở ở những khu vực có nhiều côn trùng. Ngoài ra phải kết hợp thêm với
các phương pháp vật lý như sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt gián, bẫy côn
trùng. Ở các khu vực nội thành đông dân cư, khu tập thể nhiều người sinh sống,
việc kiểm soát sự xâm nhập của gián gần như là một thách thức.
Vật nuôi
Đối với những
bệnh nhân viêm mũi dị ứng do động vật thì tránh xa vật nuôi và vệ sinh môi trường
sống là biện pháp điều trị không thể thiếu. Biện pháp này còn được khuyến cáo
áp dụng để giảm triệu chứng và ngăn ngừa đợt cấp ở bệnh nhân hen suyễn.
Các loài gặm nhấm
Các biện pháp
phòng tránh phơi nhiễm với loài gặm nhấm mang lại lợi ích trong kiểm soát viêm
mũi dị ứng và cả bệnh hen suyễn. Vì việc phơi nhiễm có thể xảy ra ở nhiều môi
trường khác nhau nên việc kiểm soát một cách toàn diện là một thách thức. Ngoài
giáo dục cho từng cá nhân, cần kết hợp các biện pháp tiêu diệt loài gặm nhất bằng
bẫy, thuốc diệt, bịt kín lỗ và vết nứt bằng lưới và làm sạch kỹ lưỡng để phòng
ngừa tối đa việc phơi nhiễm.
Phấn hoa
Đối với những
bệnh nhân nhạy cảm với phấn hoa, các biện pháp phòng tránh được khuyến cáo sử dụng
đầu tay để kiểm soát viêm mũi dị ứng và hen suyễn. Các biện pháp có thể sử dụng
như đóng cửa sổ, phơi quần áo trong nhà, lắp bộ lọc không khí, tấm chắn phấn
hoa, khẩu trang che miệng mũi, kính mát để giảm phức độ phơi nhiễm. Hiệu quả
mang lại tốt và tốn chi phí thấp.
Nghề nghiệp
Viêm mũi nghề
nghiệp là bệnh thứ phát do phản ứng dị ứng, kích ứng liên quan đén các tác nhân
khác nhau như: động vật, hạt từ gỗ, ngũ cốc, hóa chất… Chẩn đoán sớm là điều rất
quan trọng không chỉ giúp kiểm soát triệu chứng mà còn ngăn ngừa sự phát triển
của bệnh hen suyễn nghề nghiệp.
2. Điều trị bằng thuốc
a. Corticosteroid toàn thân/tại chỗ
Corticosteroid đường uống
Corticosteroid
đường uống có tác dụng làm giảm tình trạng viêm và giảm triệu chứng trong bệnh
viêm mũi dị ứng. Bệnh nhân dùng prednisone cho thấy có sự giảm đáng kể tình trạng
hắt hơi, nồng độ histamin và các chất trung gian hóa học làm tăng tính thấm
thành mạch trong giai đoạn đáp ứng muộn. Sử dụng prednisone liều cao cũng cho
thấy có sự giảm số lượng bạch cầu ái toan và các chất trung gian từ bạch cầu ái
toan. Các nghiên cứu cho thấy bất kì loại steroid đường uống nào cũng giúp cải
thiện đáng kể triệu chứng ở mũi và tác dụng vượt trội hơn so với dùng
loratadine đơn trị. Sự khác biệt giửa hiệu quả steroid đường uống và dạng xịt
không đáng kể. Dù vậy, người ta nhận thấy steroid đường uống có tác dụng tốt
hơn trong việc kiểm soát triệu chứng dị ứng ở mắt.
Mặc dù có các
hiệu quả tuyệt vời trong điều trị viêm mũi dị ứng nhưng corticosteroid đường uống
có các tác dụng phụ toàn thân được ghi nhận rõ ràng như ức chế trục vùng hạ đồi
– tuyến yên. Sử dụng kéo dài có thể dẫn đến tình trạng chậm phát triển ở trẻ
em. Nguy cơ của steroid đường uống lớn hơn lợi ích, thêm vào đó tác dụng của
steroid dạng xịt là tương đương và tác dụng phụ ít hơn. Vì thế, việc sử dụng
thuốc đường uống bị hạn chế và được thay thế bằng các chế phẩm dạng xịt dùng
qua đường mũi.
Mặc dù không được
khuyến cáo sử dụng thường quy trong điều trị viêm mũi dị ứng nhưng đối với một
số trường hợp lâm sàng nhất định có thể phù hợp với biện pháp steroid toàn thân
ngắn hạn ví dụ bệnh nhân bị nghẹt mũi nghiêm trọng khiến các thuốc dạng xịt
không thể thâm nhập để phát huy tác dụng. Khuyến cáo cho rằng các bác sĩ lâm
sàng luôn phải thảo luận về rủi ro và lợi ích với bệnh nhân trước khi sử dụng
liệu pháp steroid toàn thân dù trong thời gian ngắn.
Corticosteroid dạng xịt mũi (Intranasal corticosteroid - INCS)
Steroid dạng xịt
có đặc tính chống viêm mạnh, dẫn đến giảm đáng kể chất trung gian và
cytokine,và ức chế đáng kể sự thu hút các tế bào viêm vào dịch tiết mũi.
Steroid dạng xịt cũng làm giảm tình trạng quá mẫn do kháng nguyên gây ra ở niêm
mạc mũi. Các thử nghiệm lâm sàng ở người lớn và trẻ em đã chứng minh sự hiệu quả
của steroid dạng xịt trong việc giảm các triệu chứng ở mũi trong viêm mũi dị ứng.
Steroid dạng xịt cũng cải thiện đáng
kể chất lượng cuộc sống và giấc ngủ của bệnh nhân. Các nghiên cứu đã chứng minh
việc sử dụng steroid dạng xịt khi cần thiết có hiệu quả vượt trội so với giả dược
và hiệu quả tương đương với việc sử dụng thuốc liên tục hàng ngày. Steroid dạng
xịt cũng có tác dụng trên các triệu chứng dị ứng mắt nhờ làm giảm phản xạ mũi-mắt.
Tác dụng này khác nhau giữa các chế phẩm. Một số các nghiên cứu cho thấy rằng
steroid dạng xịt cải thiện mức kiểm soát và các đợt trầm trọng của bệnh hen suyễn.
Khi so sánh với kháng histamin và kháng thụ thể leukotrien, steroid dạng xịt chứng
minh được tác dụng vượt trội hơn hẳn qua các nghiên cứu. Do đó thuốc được khuyến
cáo trở thành liệu pháp đầu tay trong điều trị viêm mũi dị ứng.
Hiệu quả giữa
các steroid dạng xịt khác nhau đều tương đương nhau, tuy nhiên chúng có những sự
khác biệt nhỏ về mùi và dư vị sau khi xịt. Điều đó khiến cho những khác biệt
này trở thành yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn sản phẩm.
Các tác dụng
phụ thường gặp nhất của steroid dạng xịt do sự kích ứng tại chỗ, bao gồm: khô,
rát, châm chích và chảy máu cam. Thủng vách ngăn là một biến chứng hiếm gặp của
thuốc. Ngoài ra cần phải cẩn thận khi sử dụng thuốc ở bệnh nhân tăng nhãn áp và
đục thủy tinh thể. Các nghiên cứu đánh giá tác dụng của steroid dạng xịt trên
trục tuyến yên - vùng hạ đồi, suy tuyến thượng thận ở người lớn và trẻ em cho
thấy không có tác dụng phụ rõ ràng. Tác dụng của steroid dạng xịt đối với sự
tăng trưởng ở trẻ em đã được nghiên cứu trong các nghiên cứu ngắn hạn có kiểm
soát (2–4 tuần) và dài hạn (12 tháng). Dữ liệu cho thấy steroid dạng xịt có thể
có những tác động có hại đến sự tăng trưởng ngắn hạn ở trẻ em, tuy nhiên kết quả
là không rõ ràng và không đồng nhất giữa các nghiên cứu và vẫn chưa rõ liệu những
tác động này có chuyển thành ức chế tăng trưởng dài hạn hay không. Vì vậy nên sử
dụng liều thấp nhất có hiệu quả và cần phải kiểm tra định kỳ sự tăng tưởng ở trẻ
em sử dụng steroid dạng xịt dài hạn.
Về tính an
toàn của steroid dạng xịt, đã có nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối
chứng giả dược trên trẻ em Trung Quốc từ 2-12 tuổi đã chứng minh tính hiệu quả
và an toàn của fluticasone furoate dạng xịt 55 µg hoặc 110 µg trong điều trị
viêm mũi dị ứng kể cả trẻ nhỏ từ 2-6 tuổi .
Corticosteroid tiêm
Corticosteroid
dạng tiêm bắp hoặc tiêm vào cuốn mũi đã được nghiên cứu trong điều trị viêm mũi
dị ứng và cho thấy có hiệu quả đáng kể về cải thiện triệu chứng lâm sàng. Các
chế phẩm steroid tiêm bắp khác nhau đều mang lại tác dụng đáng kể nhưng có một
số sự khác biệt về hiệu quả giữa các thuốc. Khi so sánh với các thuốc khác thì
steroid dạng tiêm bắp chứng minh hiệu quả tương đương hoặc vượt trội hơn. Tuy
nhiên corticosteroid dạng tiêm có tác dụng phụ không mong muốn trên trục vùng hạ
đồi – tuyến yên, gây chậm phát triển ở trẻ em, tăng nguy cơ loãng xương, tăng
đường huyết và các tác dụng phụ toàn thân khác.
Tiêm
corticosteroid vào cuốn mũi cũng đã được nghiên cứu để kiểm soát viêm mũi dị ứng.
Tuy nhiên đường dùng này không được khuyến cáo bởi những báo cáo về nguy cơ biến
chứng ở hốc mắt liên quan đến sự lắng đọng thuốc trong cuốn mũi. Các biến chứng
bao gồm: giảm hoặc mất thị lực thoáng qua, nhìn đôi, mờ mắt, mù tạm thời, tầm
nhìn bị hạn chế tạm thời, liệt cơ thẳng trong. Các hạt steroid kích thước lớn
được cho là có nguy cơ gây biến chứng hơn những hạt kích thước nhỏ.
Vì nguy cơ tác
dụng phụ nghiêm trọng toàn thân và tại mắt lớn hơn lợi ích mang lại và tính hiệu
quả, sẵn có và ưu việt hơn của các phương pháp thay thế (ví dụ steroid dạng xịt)
nên steroid đường tiêm không được khuyến cáo trong điều trị viêm mũi dị ứng.
b. Dung dịch nước muối ưu trương dạng xịt
Nước muối dạng
xịt là một liệu pháp được sử dụng phổ biến trong điều trị viêm mũi dị ứng. Các
chế phẩm trên thị trường hiện nay có sự khác nhau về độ mặn (ưu trương, đẳng
trương) và độ đệm (có đệm hoặc không đệm) cũng như khác biệt về thể tích,
phương thức, tần suất sử dụng.
Ở nhóm dân số
trưởng thành: tất cả các nghiên cứu đều cho thấy sự cải thiện về kết quả lâm
sàng đáng kể khi sử dụng nước muối dạng xịt trong điều trị viêm mũi dị ứng. So
với nước muối đẳng trương, nước muối ưu trương cho thấy chất lượng cuộc sống và
điểm số về triệu chứng cải thiện tốt hơn. So sánh về mức độ đệm khác nhau của
các chế phẩm, vài nghiên cứu cho thấy nước muối có độ kiềm nhẹ có tác động tốt
hơn trên triệu chứng và được hầu hết bệnh nhân ưa thích hơn. Nước muối dạng xịt
có thể là phương pháp điều trị bổ sung an toàn bên cạnh những thuốc đầu tay
khác. Ngoài ra đối với phụ nữ mang thai và trẻ em, việc sử dụng nước muối dạng
xịt tỏ ra an toàn và hiệu quả, có thể trở thành liệu pháp điều trị thay thế. Hiệu
quả của nước muối ưu trương tốt hơn nước muối đẳng trương .
Ở nhóm dân số
trẻ em: Viêm mũi dị ứng là bệnh rất phổ biến ở trẻ em và làm giảm chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân. Các phương pháp điều trị trên trẻ em hạn chế hơn so với người
lớn. Nỗi lo sợ về tác dụng phụ và tính an toàn làm giảm sự tuân thủ của cha mẹ
đối với các loại thuốc khác. Hơn nữa liệu pháp miễn dịch khó thực hiện ở trẻ em
hơn người lón. Vì thế các liệu pháp ít tác dụng phụ và có tính an toàn cao được
ưu tiên sử dụng hơn hết. Theo các nghiên cứu, tất cả các kết quả đều cho thấy sự
cải thiện về kết quả lâm sàng trong phác đồ điều trị có kết hợp nước muối dạng
xịt. Nước muối ưu trương giúp cải thiện các triệu chứng ở mũi, chất lượng cuộc
sống và giảm nhu cầu sử dụng kháng histamin tốt hơn nước muối đẳng trương/hoặc
không sử dụng nước muối. Sử dụng nước muối ưu trương mạnh lại hiệu quả tốt, rẻ
tiền, an toàn, tính dung nạp tốt và dễ dàng được cha mẹ trẻ chấp nhận. Ngoài ra
sử dụng nước muối dạng xịt giúp nâng cao chất lượng điều trị khi kết hợp với
corticosteroid dạng xịt hơn là dùng các thuốc riêng rẽ. Cụ thể đã có nghiên cứu
cho thấy khi kết hợp steroid dạng xịt và nước muối rửa mũi, liều tác dụng hiệu
quả của steroid dạng xịt được giảm xuống thấp hơn và cũng giảm đáng kể số lượng
bạch cầu ưa acid trung bình. Hiệu quả tác dụng khi phối hợp thuốc được nâng cao
và giảm tác dụng phụ của steroid dạng xịt trên bệnh nhân trẻ em .
Tóm lại, qua kết
quả các nghiên cứu đã cho thấy bằng chứng về tính hiệu quả của nước muối dạng xịt.
Sử dụng dưới dạng đơn trị cho thấy sự cải thiện về triệu chứng và chất lượng cuộc
sống, tuy nhiên thuốc thường được kết hợp với các liệu pháp khác chẳng hạn
corticosteroid dạng xịt, kháng histamin dạng xịt và dạng uống. Thuốc có chi phí rất thấp, có tính an toàn gần
như là tuyệt đối và có rất hiếm tác dụng phụ như kích ứng mũi, hắt hơi và ho.
Do đó các khuyến cáo cho rằng nước muối dạng xịt nên được xem là một phần chiến
lược trong điều trị. Có thể sử dụng như phương pháp điều trị đầu tay, riêng lẻ
hoặc kết hợp với các thuốc khác. Nên sử dụng nước muối ưu trương hơn đăng
trương, nhất là đối với trẻ em vì tính hiệu quả ưu việt .
c. Kháng Histamin
Thuốc kháng H1 đường uống
Trong viêm mũi
dị ứng, IgE liên kết với tế bào mast và bạch cầu ái kiềm kích hoạt giải phóng
histamin. Histamin có tác dụng giãn mạch, co thắt cơ trơn phế quản, tăng tính
thấm thành mạch, kích thích thần kinh cảm giác, góp phần gây ra các triệu chứng
của viêm mũi dị ứng. Thuốc kháng histamin khiến các thụ thể histamin chuyển
sang trạng thái không hoạt động nhờ đó ngăn ngừa được các triệu chứng. Thuốc được
phân loại là thế hệ thứ nhất, thứ hai và thứ ba.
Thuốc kháng
histamin thế hệ thứ nhất (ví dụ diphenhydramine và chlorpheniramine) có tác dụng
phụ kháng cholinergic và vượt qua hàng rào máu não, dẫn đến tác động lên hệ thần
kinh trung ương gây buồn ngủ. Các tác dụng này biểu hiện rõ rệt hơn ở người cao
tuổi, do đó cần thận trọng khi sử dụng loại thuốc này. Vì nhiều tác dụng phụ
nên nó cũng không được khuyến cáo ưu tiên trong điều trị viêm mũi dị ứng.
Thuốc kháng
histamine thế hệ mới (ví dụ bilastine, cetirizine, desloratadine, fexofenadine,
levocetirizine và loratadine) ngăn chặn thụ thể H1 ngoại biên và không vượt qua hàng rào
máu não do đó không có tác dụng phụ lên hệ thần kinh trung ương. Vì thế thuốc
được khuyến cáo trong điều trị viêm mũi dị ứng. Một số thuốc kháng histamine thế
hệ mới được chuyển hóa ở gan nhờ enzyme cytochrom p450. Do đó, nên lưu ý khi sử
dụng đồng thời các thuốc gây cảm ứng hoặc được chuyển hóa bởi cytochrome p450
vì việc sử dụng đồng thời có thể làm tăng hoặc giảm nồng độ thuốc kháng
histamine trong huyết tương.
Thuốc kháng H2 đường uống
Sự hiểu biết về
vai trò thụ thể H2 trong cơ chế triệu chứng ở mũi liên quan đến histamin trong
viêm mũi dị ứng còn hạn chế. Hiện tại vẫn còn khá ít nghiên cứu so sánh hiệu quả
của thuốc kháng H2 so với các liệu pháp điều trị đầu tay phổ biến như
corticosteroid dạng xịt. Theo một số ít nghiên cứu gần đây, thuốc kháng H2 đường
uống có tác dụng cải thiện kiểm soát triệu chứng khi kết hợp với thuốc kháng H1
đường uống. Tuy nhiên vẫn chưa có các khuyến cáo cụ thể và bằng chứng hiện có
không đủ để chứng minh lợi ích của thuốc kháng H2 trong điều trị viêm mũi dị ứng.
Thuốc kháng histamin dạng xịt
Hai công thức
thuốc kháng histamine dạng xịt hiện đang có sẵn ở Bắc Mỹ là azelastine
hydrochloride và olopatadine hydrochloride. Thuốc kháng histamin dạng xịt mũi
cho thấy sự ưu việt trong cải thiện triệu chứng tại chỗ và nâng cao chất lượng
cuộc sống. So với thuốc kháng histamin đường uống, dạng xịt có hiệu quả tốt hơn
trong điều trị nghẹt mũi và hiệu quả hơn đối với các triệu chứng ở mắt so với
corticosteroid dạng xịt. Tuy nhiên đối với triệu chứng chống tắc nghẽn,
corticosteroid tỏ ra có tác dụng tốt hơn. Thuốc có tác dụng khởi phát nhanh, sớm
nhất là 15 phút sau khi dùng thuốc và không có sự khác biệt đáng kể về hiệu quả
điều trị của hai loại chế phẩm.
Hiện nay chưa
có nghiên cứu nào báo cáo tác dụng phụ nghiêm trọng do sử dụng thuốc kháng
histamin dạng xịt mũi. Tác dụng phụ phổ biến nhất là khó chịu về vị giác ngoài
ra còn có buồn ngủ, nhức đầu, chảy máu cam, khó chịu ở mũi xảy ra ở dưới 10% bệnh
nhân điều trị. Năm 2021, lần đầu tiên FDA phê duyệt một loại thuốc kháng
histamin dạng xịt dưới dạng công thức không cần kê đơn – chính là azelastine
hydrochloride. Thay đổi này giúp cải thiện khả năng tiếp cận thuốc của bệnh
nhân điều trị viêm mũi dị ứng.
d. Thuốc co mạch giảm sung huyết đường xịt
Thuốc thông mũi đường uống
Thuốc thông
mũi đường uống tác động lên các thụ thể adrenergic, dẫn đến co mạch ở các mạch
máu nhỏ (chẳng hạn như niêm mạc mũi), kết quả là làm giảm các triệu chứng nghẹt
mũi ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng. Thuốc thông mũi được sử dụng phổ biến nhất là
pseudoephedrine và phenylephrine. Chúng có tính chọn lọc thụ thể adrenergic
khác nhau và có tác dụng co mạch nhờ tác động lên hệ giao cảm. Ngoài lợi ích
làm giảm triệu chứng nghẹt mũi, hiện tại có rất ít bằng chứng về tác dụng kiểm
soát các triệu chứng khác trong viêm mũi dị ứng. Khi dùng các thuốc này qua đường
uống, ngoài tác dụng tại chỗ chúng còn có tác dụng toàn thân dẫn đến các tác dụng
phụ như mất ngủ, nhức đầu, hồi hộp, lo lắng, run, đánh trống ngực, bí tiểu,
tăng huyết áp,…
Các nghiên cứu
về hiệu quả của thuốc thông mũi đường uống đã chỉ ra rằng pseudoephedrine có hiệu
quả tương đương montelukast và kém hiệu quả hơn kháng histamin trong kiểm soát
triệu chứng của bệnh nhân viêm mũi dị ứng. Liệu pháp kết hợp kháng histamin và
pseudoephedrine cho thấy kết quả kiểm soát triệu chứng tốt hơn đơn trị liệu
pseudoephedrine.
Các khuyến cáo
cho rằng không nên sử dụng thuốc thông mũi đường uống thường xuyên trong điều
trị viêm mũi dị ứng. Trong một số trường hợp có thể sử dụng liệu pháp phối hợp
với kháng histamin để làm giảm nghẹt mũi nặng một cách nhanh chóng trong thời
gian ngắn. Nên xem xét các lựa chọn thay thế như thuốc thông mũi đường xịt. Bệnh
nhân nên được giải thích rõ về lợi ích và rủi ro, tác dụng phụ khi sử dụng thuốc
thông mũi đường uống.
Thuốc thông mũi đường xịt
Thuốc thông
mũi đường xịt – oxymetazoline, xylometazoline và phenylephrine – là các chất chủ
vận α-adrenergic hoạt động như thuốc co mạch tại chỗ làm giảm phù nề mô. Về mặt
lâm sàng, sử dụng trong thời gian ngắn giúp giảm nghẹt mũi và tắc nghẽn mũi,
tuy nhiên ít hoặc không có tác dụng đối với các triệu chứng dị ứng như hắt hơi,
chảy nước mũi và ngứa mũi. Thời gian tác dụng bắt đầu trong vòng 10 phút và kéo
dài tới 12 giờ.
Viêm mũi do
thuốc, là một tình trạng do sử dụng thuốc thông mũi đường xịt kéo dài, đặc
trưng bởi sự gia tăng triệu chứng nghẹt mũi. Do đó các khuyến cáo cho rằng
không nên sử dụng các loại thuốc này trong thời gian dài. Ngoài ra, khi xem xét
tác động của chất bảo quản benzalkonium clorua trong thuốc thông mũi đường xịt,
người ta thấy rằng thuốc xịt mũi chỉ chứa benzalkonium clorua gây sưng niêm mạc,
cho thấy sự hiện diện của chất bảo quản này có thể làm trầm trọng thêm bệnh
viêm mũi do thuốc.
Các tác dụng
phụ của thuốc thông mũi đường xịt bao gồm khó chịu/nóng rát ở mũi, khô mũi, gia
tăng sung huyết, viêm mũi do thuốc, tăng huyết áp, lo lắng, run, phụ thuộc thuốc.
Mặc dù thuốc thông mũi có hiệu quả nhanh chóng trong việc giảm nghẹt mũi nhưng
nên sử dụng thuốc trong thời gian ngắn, khoảng 3 ngày hoặc ít hơn, để tránh khả
năng bị nghẹt mũi do phản ứng dội và viêm mũi do thuốc.
e. Kháng Leukotriene (Leukotriene Receptor Antagonists – LTRA)
LTRA đã được
nghiên cứu trong điều trị viêm mũi dị ứng. Montelukast được FDA Hoa Kỳ chấp thuận
để điều trị viêm mũi dị ứng theo mùa ở người lớn và trẻ em trên 2 tuổi và viêm
mũi dị ứng mạn tính ở người lớn và trẻ em trên 6 tháng tuổi.
So với
corticosteroid đường xịt, LTRA có hiệu quả kém hơn trong điều trị triệu chứng,
cải thiện chất lượng cuộc sống, cải thiện chức năng khứu giác của bệnh nhân
viêm mũi dị ứng. LTRA vượt trội hơn các thuốc kháng histamin đường uống trong
việc kiểm soát các triệu chứng ban đêm, nhưng lại ít hiệu quả hơn với các triệu
chứng ban ngày
Trong các Hướng
dẫn thực hành lâm sàng về viêm mũi dị ứng, Hội bác sĩ gia đình Hoa kỳ đã khuyến
cáo LTRA không nên được sử dụng như đơn trị liệu trong điều trị AR nhưng có thể
được xem xét trong những trường hợp chọn lọc khi bệnh nhân có chống chỉ định với
các phương pháp điều trị đầu tay khác
f. Cromolyn
Disodium
cromoglycate (DSCG) là một chất ổn định tế bào mast có tác dụng ức chế sự giải
phóng chất trung gian hóa học thúc đẩy tình trạng viêm qua trung gian IgE. FDA
đã phê chuẩn sử dụng cromolyn cho người lớn và trẻ em (2 tuổi trở lên) để phòng
ngừa và giảm các triệu chứng tại chỗ trong viêm mũi dị ứng. Cromolyn được sản
xuất dưới dạng thuốc xịt mũi không cần kê đơn. Tác dụng của nó khởi phát nhanh
chóng với hiệu quả kéo dài đến 8 giờ. Cromolyn chủ yếu được sử dụng để ngăn ngừa
sự khởi phát các triệu chứng trước khi tiếp xúc với chất gây dị ứng, nhưng cũng
có tác dụng điều trị các triệu chứng như làm giảm hắt hơi, chảy nước mũi và nghẹt
mũi.
DSCG có tính
an toàn cao và chỉ có những tác dụng phụ nhỏ bao gồm kích ứng mũi họng, hắt
hơi, chảy nước mũi và đau đầu. Do đó thuốc này có thể được sử dụng cho đối tượng
trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai.
DSCG đã được
chứng minh có hiệu quả tương đương kháng histamin đường uống trong việc kiểm
soát các triệu chứng ở mũi và làm giảm đáng kể lượng bạch cầu ái toan ở mũi – một
tác dụng không có ở kháng histamin đường uống. Tuy nhiên, so với kháng histamin
và corticosteroid dạng xịt, DSCG lại kém hiệu quả hơn. Do đó DSCG không được
khuyến cáo như phương pháp điều trị chính mà chỉ nên được xem xét như phương
pháp điều trị bậc 2 ở những bệnh nhân thất bại với corticoid và kháng histamin
dạng xịt. Thuốc cũng có thể được sử dụng như một chiến lược phòng ngừa ngắn hạn
trước khi tiếp xúc với chất gây dị ứng ở bệnh nhân người lớn, trẻ em từ 2 tuổi
và phụ nữ mang thai có nguy cơ phơi nhiễm với tác nhân dị ứng.
g. Kháng cholinergic dạng xịt (ipratropium bromide)
Thuốc có tác dụng
làm giảm chảy nước mũi và giảm triệu chứng hắt hơi, giảm tình trạng chảy nước
mũi sau khi tiếp xúc với không khí lạnh và ăn đồ nóng nhờ sự điều hòa qua phản
xạ tăng tiết từ mũi. Tuy nhiên thuốc không có tác dụng với tình trạng nghẹt
mũi. Thuốc có thời gian khởi phát tác dụng nhanh và thời gian bán hủy ngắn. Có
thể sử dụng đến 6 lần mỗi ngày. FDA đã phê duyệt kháng cholinergic dạng xịt để
điều trị viêm mũi dị ứng theo mùa ở người lớn và trẻ em từ 5 tuổi. Thuốc cũng
được dùng để kiểm soát sổ mũi ở người lớn, trẻ em bị viêm mũi dị ứng mạn tính.
Kháng
cholinergic dạng xịt hấp thu kém vào máu và không gây tác dụng phụ toàn thân
khi dùng liều điều trị thông thường vì nồng độ thuốc trong huyết tương cần để
gây tác dụng kháng cholinergic toàn thân là lớn hơn 1,8 ng/ml. Tuy nhiên, cần
thận trọng để tránh dùng quá liều. Tác dụng phụ của thuốc chủ yếu là tác dụng tại
chỗ.
Khi so sánh với
các loại thuốc điều trị viêm mũi dị ứng khác, kháng cholinergic dạng xịt đã được
chứng minh là có hiệu quả gần như tương đương với corticosteroid dạng xịt trong
kiểm soát triệu chứng chảy nước mũi, nhưng kém hiệu quả hơn với triệu chứng hắt
hơi. Do đó khuyến cáo sử dụng thuốc như phương pháp điều trị bổ sung cho bệnh
nhân viêm mũi dị ứng bị chảy nước mũi dai dẳng mặc dù đã được kết hợp nhiều loại
thuốc đầu tay.
h. Chế phẩm sinh học
Các thuốc sinh
học được nghiên cứu để điều trị các tình trạng dị ứng bao gồm omalizumab,
mepolizumab, dupilumab, benralizumab và reslizumab. Điều trị bằng Omalizumab
giúp cải thiện các triệu chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên chi
phí điều trị cao, có thể xuất hiện phản ứng tại chỗ tiêm và nguy cơ sốc phản vệ
trên bệnh nhân. Hiện nay các bằng chứng về hiệu quả của thuốc chưa được rõ ràng
do đó chưa có chế phẩm sinh học nào được FDA Hoa Kỳ chấp nhận để điều trị viêm
mũi dị ứng. Mặc dù vậy các chế phẩm sinh học vẫn cho thấy tiềm năng hứa hẹn là
một trong những lựa chọn điều trị cho bệnh viêm mũi dị ứng.
i. Men vi sinh
Mối quan hệ giữa
hệ vi sinh vật và sự phát triển của bệnh dị ứng rất phức tạp và chưa được hiểu
biết một cách đầy đủ. Giả thuyết vệ sinh cho rằng điều kiện sống hiện đại với sự
vệ sinh quá mức làm giảm sự tiếp xúc với vi khuẩn, dẫn đến cơ thể không có sự miễn
dịch đầy đủ với các tác nhân. Sự đa dạng sinh học thấp trong giai đoạn đầu đời
cũng ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch và có thể dẫn đến phản ứng gây viêm, bao
gồm cả quá mẫn cảm do dị ứng. Ngược lại, việc tiếp xúc với vài loại vi khuẩn
phù hợp ở giai đoạn phôi thai sẽ tác động đến đa dạng sinh học đường ruột, do
đó làm tăng hoạt động điều hòa của tế bào T và làm tăng khả năng miễn dịch.
Men vi sinh là
một phương pháp không điều trị không tốn kém, dung nạp tốt kể cả với bệnh nhân
gặp tác dụng phụ của thuốc (ví dụ như đầy hơi, tiêu chảy, đau bụng). Thuốc có
khả năng cải thiện các triệu chứng về mũi/mắt và chất lượng cuộc sống trong hầu
hết các nghiên cứu. Khuyến cáo cân nhắc sử dụng bổ trợ men vi sinh cho bệnh
nhân viêm mũi dị ứng có triệu chứng theo mùa hoặc mạn tính.
j. Liệu pháp kết hợp
Thuốc kháng histamine đường uống và thuốc thông mũi
Thuốc kháng
histamin đường uống có tác dụng giảm triệu chứng ngứa, hắt hơi, giãn mạch tuy
nhiên ít tác dụng với tình trạng tắc nghẽn tại mũi. Thuốc thông mũi đường uống
– là những hoạt chất giống giao cảm, gây co thắt mạch máu, và tác dụng giảm nghẹt
mũi rõ rệt hơn. Vì thế để tăng hiệu quả điều trị viêm mũi dị ứng thì thuốc
kháng histamin đường uống có thể kết hợp với thuốc thông mũi đường uống. Liệu
pháp kết hợp này được chứng minh giảm triệu chứng nghẹt mũi hơn so với sử dụng
hai thuốc riêng rẽ.
Tác dụng phụ của
thuốc kháng histamin đường uống gây buồn ngủ, khô miệng, bí tiểu đặc biệt là
thuốc kháng histamin thế hệ thứ nhất. Thuốc thông mũi đường uống có thể gây
đánh trống ngực, mất ngủ, bồn chồn, khô miệng. Vì vậy các khuyến cáo khuyên rằng
liệu pháp kết hợp không nên sử dụng cho bệnh nhân dưới 12 tuổi. Nên thận trọng
khi sử dụng với phụ nữ mang thai, bệnh nhân rối loạn nhịp tim, tăng huyết áp,
phì đại tiền liệt tuyến với thuốc thông mình đường uống. Thuốc kháng histamin
đường uống cần thận trọng với bệnh nhân có bệnh tim, đang dùng thuốc ức chế
monoamine oxidase, thuốc an thần, một số loại thuốc chống động kinh. Liệu pháp
kết hợp thuốc kháng histamin và thuốc thông mũi dạng uống có thể là lựa chọn hiệu
quả cho các triệu chứng viêm mũi dị ứng cấp tính như nghẹt mũi, hắt hơi. Cần cẩn
thận khi sử dụng lâu dài vì tác dụng sẽ lớn hơn lợi ích mang lại.
Thuốc kháng histamine đường uống và corticosteroid dạng xịt mũi
Việc kết hợp
steroid dạng xịt và kháng histamin đường uống chưa chứng minh được hiệu quả rõ
rệt hơn so với steroid đơn thuần trong điều trị viêm mũi dị ứng. Tuy nhiên có
thể có tác dụng ở những bệnh nhân có triệu chứng nghẹt mũi nghiêm trọng và hắt
hơi, ngứa mắt. Ở những bệnh nhân không có triệu chứng nghẹt mũi đáng kể thì việc
bổ sung steroid dạng xịt với thuốc kháng histamin chỉ mang lại lợi ích hạn chế.
Thuốc kháng histamine và thuốc đối kháng thụ thể leukotriene đường uống
Thuốc kháng
histamin đường uống kết hợp với kháng leukotrien tỏ ra vượt trội trong việc giảm
triệu chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống so với giả dược và so với từng thuốc
đơn trị. Tuy nhiên liệu pháp kết hợp này có tác dụng kém hơn steroid dạng xịt
và cũng tốn kém hơn về mặt chi phí. Ngoài ra còn có những cảnh báo về tác dụng
phụ lên sức khỏe tâm thần liên quan đến kháng leukotrien khiến liệu pháp này tỏ
ra kém an toàn. Thêm vào đó là sự sẵn có, an toàn của các liệu pháp thay thế hiệu
quả như steroid dạng xịt, nên liệu pháp này không được khuyến cáo sử dụng như
liệu pháp đầu tay trong điều trị viêm mũi dị ứng. Tuy nhiên vẫn có thể xem xét ở
bệnh nhân có chống chỉ định với các lựa chọn khác và cần được sử dụng cẩn thận
và cân nhắc lợi ích, rủi ro.
Corticosteroid dạng xịt mũi và thuốc kháng histamine dạng xịt mũi
Lợi ích của
steroid dạng xịt kết hợp với thuốc kháng histamin dạng xịt là khởi phát tác dụng
nhanh, hiệu quả hơn trong điều trị triệu chứng so với hai liệu pháp riêng rẽ. Lợi
ích của liệu pháp kết hợp này vượt trội so với nguy cơ tác dụng phụ. Tác dụng
phụ thấp và không nghiêm trọng, chỉ có thể gây sự khó chịu về mùi và vị giác
cho bệnh nhân. Tuy nhiên chi phí điều trị tăng lên khi sử dụng kết hợp cả hai
thuốc. Vì điều này, nhu cầu của liệu pháp bị hạn chế và không được các khuyến
cáo điều trị ủng hộ như phương pháp điều trị đầu tay. Tuy nhiên liệu pháp được
khuyến cáo mạnh mẽ ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng sử dụng đơn trị liệu ban đầu bằng
steroid dạng xịt hoặc thuốc kháng histamin mà không đem lại sự kiểm soát tốt.
Thuốc đối kháng thụ thể leukotriene và corticosteroid dạng xịt mũi
Một số nghiên
cứu chứng minh rằng sự kết hợp giữa thuốc đối kháng thụ thể leukotrien và
steroid dạng xịt mũi đem lại sự cải thiệu về triệu chứng và chất lượng cuộc sống,
tuy nhiên có một số phân tích tổng hợp khác không cho thấy lợi ích ngoại trừ cải
thiện ngứa mắt. Ngoài ra liệu pháp này cũng có thể hữu ích trong việc kiểm soát
triệu chứng ở những bệnh nhân đồng mắc hen suyễn và viêm mũi dị ứng, sau khi đã
cân nhắc kĩ lợi ích và nguy cơ. Tác dụng phụ đáng lo ngại là tác dụng ảnh hưởng
sức khỏe tâm thần của kháng leukotrien. Vì thế liệu pháp này cần được cân nhắc
kỹ lưỡng trước khi sử dụng và không được khuyến cáo thường quy trong điều trị
viêm mũi dị ứng.
Kết hợp corticosteroid xịt mũi và thuốc thông mũi
Hiện tại kết
quả của các nghiên cứu về kết hợp giữa steroid dạng xịt và thuốc thông mũi chưa
rõ ràng. Liệu pháp có thể có vai trò ở những bệnh nhân viêm mũi dị ứng kháng trị
với steroid dạng xịt và kháng histamin dạng xịt.
Kết hợp corticosteroid xịt mũi và ipratropium xịt mũi
Sự kết hợp của
steroid dạng xịt và ipratropium dạng xịt giúp giảm triệu chứng chảy nước mũi ở
bệnh nhân viêm mũi dị ứng kháng trị với steroid dạng xịt và bệnh nhân mắc triệu
chứng chảy nước mũi dai dẳng. Tuy nhiên chưa có bằng chứng khác về lợi ích
trong việc kiểm soát các triệu chứng khác ngoài chảy mũi. Tác dụng phụ thường
không đáng kể nếu dùng với liều khuyến cáo
Liệu pháp khác
Châm cứu
Từ thế kỷ thứ
5 trước Công nguyên, châm cứu đã được sử dụng như một phương pháp điều trị các bệnh
lý tai mũi họng. Người ta thấy rằng châm cứu giúp cải thiện triệu chứng và chất
lượng cuộc sống, tính dung nạp khá tốt và không có tác dụng phụ toàn thân. Tác
dụng phụ tại chỗ bao gồm: kích ứng da, ban đỏ, xuất huyết dưới da, ngứa, tê, ngất
xỉu, đau đầu. Điện châm có thể gây ảnh hưởng máy tạo nhịp. Ở bệnh nhân đang
mang thai cần thận trọng vì một số huyệt có thể gây chuyển dạ. Thời gian điều
trị tương đối dài và cần kết hợp nhiều phương pháp điều trị khác để đạt kết quả
tối ưu. Các bằng chứng nhìn chung ủng hộ châm cứu ở mức độ liệu pháp bổ trợ và
có thể áp dụng ở những bệnh nhân muốn tránh sử dụng thuốc
Mật ong
Người ta tin rằng
mật ong có hiệu quả trong việc điều trị các triệu chứng của viêm mũi dị ứng.
Các nghiên cứu trên động vật đã chứng minh mật ong có khả năng ngăn chặn phản ứng
của kháng thể IgE và ức chế hoạt hóa tế bào mast qua trung gian IgE. Thêm vào
đó các nghiên cứu ở người đã chứng minh các đặc tính chống viêm khác nhau của mật
ong. Tuy nhiên, hiện có rất ít nghiên cứu chứng minh cho điều này do đó hiện tại
mật ong chưa được đưa vào phác đồ điều trị.
Liệu pháp thảo dược
Có rất nhiều
nghiên cứu về tính hiệu quả của các loại thảo mộc trong điều trị viêm mũi dị ứng,
tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu đều nhỏ và kết quả chưa đáng tin cậy. Người ta
nhận thấy một số loại thảo mộc có thể giúp giảm triệu chứng, bên cạnh đó có đi
kèm vài tác dụng phụ nhẹ. Độ an toàn, chất lượng, tiêu chuẩn hóa của phương
pháp điều trị chưa được chuẩn hóa và rõ ràng. Các bằng chứng về lợi ích chưa đầy
đủ nên liệu pháp thảo mộc chưa được khuyến nghị trong phác đồ điều trị
3. Điều trị bằng phẫu thuật
Mặc dù điều trị
nội khoa được coi là nền tảng trong bệnh viêm mũi dị ứng, điều trị bằng phẫu
thuật/thủ thuật vẫn đóng vai trò quan trọng khi bệnh nhân không đáp ứng với điều
trị nội. Trong trường hợp này, phẫu thuật nhằm mục đích cải thiện các vấn đề về
cấu trúc có thể dẫn đến tắc nghẽn tại mũi hoặc giải quyết trực tiếp các nguyên
nhân của triệu chứng như chảy nước mũi, phù nề niêm mạc
Phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn giúp cải thiện triệu chứng và thông
thoáng đường thở tại mũi. Nguy cơ của phẫu thuật bao gồm: tụ máu, thủng vách
ngăn, khô mũi, chảy máu cam và có thể gây tắc nghẽn đường thở. Phương pháp này
phù hợp với bệnh nhân lệch vách ngăn do tắc nghẽn và có thể xem xét ở bệnh nhân
viêm mũi dị ứng thất bại với điều trị nội khoa kèm theo đặc điểm giải phẫu phù
hợp có thể hưởng lợi ích sau phẫu thuật.
Phẫu thuật cuống mũi dưới giúp cải thiện các triệu chứng viêm mũi như
nghẹt mũi, hắt hơi, ngứa ngoài ra còn giúp cải thiện chức năng, diện tích
khoang mũi và độ thông thoáng của mũi. Nguy cơ biến chứng của phẫu thuật gồm:
sưng tấy, hội chứng hốc mũi rỗng, chảy máu cam. Phương pháp này phù hợp với bệnh
nhân viêm mũi dị ứng có phì đại cuốn mũi dưới thất bại với điều trị nội khoa.
Phẫu thuật cắt bỏ dây thần kinh (cắt dây thần kinh vidian, cắt dây thần
kinh mũi sau) làm giảm tình trạng chảy nước mũi, tuy nhiên tăng nguy cơ
biến chứng như khô mắt do giảm chảy nước mắt, tê môi/vòm miệng, khô mũi và có
thể gây tổn thương các dây thần kinh khác. Phương pháp này phù hợp với bệnh
nhân viêm mũi dị ứng thất bại điều trị nội khoa và đặc biệt hiệu quả trên triệu
chứng chảy nước mũi.
Liệu pháp áp lạnh/đốt dây thần kinh mũi sau bằng sóng cao tần có tác dụng
tương tự phương pháp Phẫu thuật cắt bỏ dây thần kinh (cắt dây thần kinh vidian,
cắt dây thần kinh mũi sau). Phương pháp này giúp cải thiện tình trạng chảy nước
mũi một cách rõ rệt và nhanh chóng tuy nhiên có những biến chứng như chảy máu
cam, đau, sưng mặt trong thời gian ngắn và đau đầu.
4. Liệu pháp miễn dịch
Những ai phù hợp với liệu pháp miễn dịch?
Trong ba
phương thức chính được sử dụng để quản lý viêm mũi dị ứng – tránh chất gây dị ứng,
trị liệu bằng thuốc và liệu pháp miễn dịch thì liệu pháp miễn dịch là phương
pháp điều trị duy nhất có tác dụng điều trị bệnh thông qua việc tạo ra khả năng
dung nạp miễn dịch. Liệu pháp miễn dịch có thể được xem xét khi bệnh nhân có kết
quả xét nghiệm da dương tính với IgE hoặc xét nghiệm in vitro với chất gây dị ứng
liên quan đến tình trạng bệnh lý của bệnh nhân.
Hầu hết các
tài liệu về liệu pháp miễn dịch đều khuyến cáo sử dụng nó ở những bệnh nhân có
các triệu chứng từ trung bình đến nặng thất bại với điều trị thuốc và tránh các
tác nhân dị ứng. Các nghiên cứu đều cho thấy sự cải thiện về các triệu chứng
và/hoặc nhu cầu dùng thuốc so với giả dược ở bệnh nhân điều trị liệu pháp miễn dịch.
Hiện nay hiệu quả của liệu pháp này với trẻ dưới 5 tuổi có rất ít bằng chứng.
Lợi ích của liệu pháp miễn dịch đối với bệnh viêm mũi dị ứng
Khác với các
phương pháp điều trị bệnh dị ứng khác, liệu pháp miễn dịch giúp đạt được những
thay đổi miễn dịch bền vững, bằng cách thay đổi phản ứng của hệ thống miễn dịch
và tạo ra khả năng miễn dịch lâu dài đối với các chất gây dị ứng. Mặc dù có nhiều
kinh nghiệm với liệu pháp này và nhiều thập kỷ nghiên cứu, cơ chế của sự cải
thiện lâm sàng vẫn chưa được làm rõ hoàn toàn.
Khi đánh giá
nhu cầu điều trị liệu pháp này cần đánh giá mức độ nghiêm trọng và thời gian của
các triệu chứng viêm mũi dị ứng, cũng như các tình trạng bệnh lý kèm theo như
hen suyễn. Hiệu quả của liệu pháp miễn dịch trong điều trị viêm mũi dị ứng được
thường được đo lường thông qua việc cải thiện các triệu chứng dị ứng và giảm
nhu cầu sử dụng thuốc. Bệnh nhân nên được đánh giá ít nhất 12 tháng một lần
trong quá trình điều trị. Có nhiều bệnh nhân thuyên giảm về mặt lâm sàng sau
khi ngừng liệu pháp, tuy nhiên vẫn có những trường hợp tái phát. Quyết định về
việc tiếp tục điều trị liệu pháp miễn dịch thường được đưa ra sau thời gian điều
trị ban đầu là 3–5 năm.
Chống chỉ định với liệu pháp miễn dịch dị ứng
Chống chỉ định
với liệu pháp miễn dịch không nhiều nhưng phải được xem xét ở tất cả các bệnh
nhân trước khi bắt đầu điều trị. Tác dụng phụ nghiêm trọng nhất là sốc phản vệ.
Do đó, nhiều chống chỉ định tuyệt đối và tương đối đối với liệu pháp này liên
quan trực tiếp đến nguy cơ phản vệ, bao gồm hen suyễn không kiểm soát, sử dụng
thuốc chẹn beta, bệnh nhân có chống chỉ định tiêm epinephrine và phụ nữ mang
thai.
Hen suyễn
không kiểm soát là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất. Hầu hết các phản ứng gây tử
vong đều liên quan đến co thắt phế quản và/hoặc suy hô hấp. Ở bệnh nhân sử dụng
thuốc chẹn β, ephinephrine dạng tiêm không thể gắn kết thụ thể β-adrenergic do
đó việc sử dụng thuốc chẹn β được coi là chống chỉ định tương đối đối với liệu
pháp miễn dịch. Việc thiếu tác dụng của epinephrine tiêm ở bệnh nhân dùng chẹn
β tạo ra tình thế tiến thoái lưỡng nan trong điều trị.
Một số hướng dẫn
cho rằng các bệnh tự miễn hệ thống đang hoạt động và bệnh ác tính đang hoạt động
là chống chỉ định với liệu pháp miễn dịch. Điều này dựa trên các báo cáo ca bệnh
cho thấy nguy cơ sốc phản vệ do liệu pháp miễn dịch cao hơn ở những bệnh nhân mắc
các tình trạng này và tác dụng điều hòa miễn dịch có thể ảnh hưởng không tốt
lên bệnh nền của bệnh nhân.
Chống chỉ định
khởi trị với liệu pháp miễn dịch với phụ nữ mang thai, mặc dù hầu hết các tài
liệu đồng thuận đều nêu rõ rằng việc tiếp tục duy trì liệu pháp miễn dịch trong
thai kỳ là không chống chỉ định. Việc tránh bắt đầu khởi trị liệu pháp này có lẽ
dựa trên mối lo ngại rằng sốc phản vệ nghiêm trọng có thể xảy ra trong quá trình
trị liệu hoặc điều trị phản vệ có thể gây hại cho thai nhi đang phát triển.
Có nhiều chống
chỉ định tương đối khác như mắc bệnh tim mạch, bệnh tự miễn hệ thống, rối loạn
tâm thần nặng, tuân thủ điều trị kém, suy giảm miễn dịch nguyên phát và thứ
phát và tiền sử phản ứng toàn thân nghiêm trọng với liệu pháp miễn dịch. Bệnh
nhân không có khả năng mô tả các triệu chứng báo trước sự khởi đầu của sốc phản
vệ cũng có thể thuộc nhóm chống chỉ định, đặc biệt ở trẻ em dưới 5 tuổi. Nhiễm
HIV không được coi là chống chỉ định trừ khi bệnh nhân mắc hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải (AIDS).
II. Viêm mũi dị ứng trong Nhi khoa – Các khuyến cáo trong điều trị
Hầu hết bệnh
nhân có triệu chứng viêm mũi dị ứng sẽ sử dụng một số hình thức trị liệu bằng
thuốc để kiểm soát triệu chứng một cách thỏa đáng. Việc quản lý cụ thể của từng
bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi tần suất và cường độ của các triệu chứng, phản ứng với
điều trị, sự hiện diện của các bệnh lý đi kèm cũng như độ tuổi và sở thích của
bệnh nhân. Các lựa chọn dược lý hiện nay trong điều trị viêm mũi dị ứng bao gồm
INCS, thuốc kháng histamine dạng xịt và đường uống, thuốc thông mũi, chất ổn định
tế bào mast, thuốc kháng cholinergic dạng xịt trong mũi và LTRA.
Trẻ em dưới 2 tuổi. Ở nhóm tuổi này viêm mũi dị ứng ít phổ biến, nhưng trẻ
em có thể thường xuyên xuất hiện các triệu chứng dị ứng bao gồm chảy nước mũi,
hắt hơi, ngứa mắt, v.v. có thể do các tác nhân chẳng hạn như bệnh do virus tái
phát, viêm mũi xoang. Trước khi điều trị viêm mũi dị ứng cho trẻ nhỏ, cần khám
và loại trừ các nguyên nhân khác.
Các lựa chọn
thuốc điều trị viêm mũi dị ứng ở trẻ dưới 2 tuổi còn hạn chế. Thuốc kháng
histamine thế hệ thứ hai và thứ ba như cetirizine, levocetirizine và
desloratadine có thể chỉ định cho trẻ dưới 6 tháng tuổi. Thuốc kháng histamine
thế hệ thứ nhất (diphenhydramine, chlorpheniramine) có nhược điểm là ưa lipid
và đi qua hàng rào máu não. Tác dụng phụ không mong muốn của các thuốc này khiến
cho việc sử dụng trở nên khó khăn, nguy hiểm do đó không được chỉ định ở trẻ dưới
2 tuổi.
Trẻ em từ 2 tuổi trở lên. Đối với trẻ lớn hơn, việc điều trị viêm mũi
dị ứng rất giống với điều trị ở bệnh nhân người lớn và phụ thuộc vào tần suất,
mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
Các triệu chứng nhẹ hoặc từng đợt có thể được điều
trị bằng thuốc để điều trị triệu chứng. Thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai hoặc
thứ ba có thể được sử dụng khi viêm mũi, hắt hơi, ngứa, chảy nước mắt. Các chế
phẩm kháng histamine dạng xịt qua mũi là một trong những lựa chọn cho trẻ trên
5 tuổi (azelastine 0,1%) và 6 tuổi (olapatadine); nhờ lợi ích làm giảm tác dụng
phụ và bắt đầu tác dụng nhanh. Thuốc kháng histamine dạng xịt qua mũi đã được
khuyên dùng thay vì dùng thuốc kháng histamine đường uống ở những bệnh nhân phù
hợp.
Các triệu chứng dai dẳng hoặc từ trung bình đến nặng,
corticosteroid dạng xịt được khuyến cáo là đơn trị liệu tốt nhất trong điều trị
các triệu chứng dị ứng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Hiệu quả của
corticosteroid dạng xịt trong việc giảm các triệu chứng ở mũi như hắt hơi, ngứa,
chảy nước mũi và nghẹt mũi ở trẻ mắc viêm mũi dị ứng đã được chứng minh.
Corticosteroid dạng xịt thường được dung nạp tốt; tuy nhiên, vì có thể xảy ra
tác dụng phụ nên cần theo dõi sự tăng trưởng ở trẻ em và nên giảm liều đến liều
thấp nhất có hiệu quả ở tất cả bệnh nhân.Các chế phẩm INCS được phê duyệt cho
trẻ từ 2 tuổi trở lên bao gồm mometasone furoate, triamcinolone acetonide và
fluticasone furoate. Hầu hết những loại khác được chỉ định cho trẻ từ 6 tuổi trở
lên, ngoại trừ fluticasone propionate và beclomethasone dipropionate, được chỉ
định cho trẻ dưới 4 tuổi.
Khi các đáp ứng với corticosteroid dạng xịt đơn trị dưới mức tối ưu, có thể xem
xét kết hợp thuốc thứ hai. Các lựa chọn bao gồm thuốc kháng histamine dạng xịt
hoặc đường uống, các thuốc thông mũi. Sự lựa chọn nên được dựa trên các triệu
chứng dai dẳng đang tồn tại, sở thích của bệnh nhân, các tác dụng phụ có thể xảy
ra và các bệnh lý kèm theo. LTRA, chẳng hạn như montelukast, đã được sử dụng
trong điều trị viêm mũi dị ứng và hen suyễn. Hiệu quả của LTRA đã được chứng
minh là kém hiệu quả hơn corticosteroid dạng xịt. Do có khả năng gây ra tác dụng
tâm thần kinh, FDA Hoa Kỳ đã khuyến cáo không nên sử dụng montelukast ở bệnh
nhân mắc viêm mũi dị ứng mà nên thay bằng các phương pháp khác. Trong Hướng dẫn
Thực hành Lâm sàng mới nhất về viêm mũi dị ứng do AAO-HNSF xuất bản,
montelukast không được khuyến cáo là liệu pháp đầu tay.
Thuốc xịt mũi
Cromolyn là chất ổn định tế bào mast có thể ức chế phản ứng dị ứng. Thuốc có hiệu
quả nhất khi sử dụng như một biện pháp dự phòng trước khi tiếp xúc dị nguyên.
Thuốc có ít tác dụng phụ (hắt hơi, mùi vị khó chịu, v.v.), nhưng do thời gian
bán hủy ngắn nên phải dùng ba đến sáu lần mỗi ngày. Thuốc đã được phê duyệt để
sử dụng cho trẻ em từ 2 tuổi. Mặc dù kém hiệu quả hơn corticosteroid dạng xịt
và thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai, thuốc vẫn được một số phụ huynh và bác
sĩ lâm sàng ưa dùng hơn nhờ tính an toàn tối ưu của nó.
Thuốc xịt mũi
ipratropium bromide đã được chứng minh là làm giảm tình trạng chảy nước mũi.
Thuốc khởi phát tác dụng nhanh chóng và phải được sử dụng thường xuyên. Thuốc
không được khuyến cáo là thuốc hàng đầu trong viêm mũi dị ứng nhưng đã chứng
minh tính hiệu quả vượt trội ở những bệnh nhân chảy nước mũi nhiều không thể kiểm
soát bằng corticosteroid dạng xịt. Thuốc đã được chứng minh là có hiệu quả hơn
khi kết hợp với steroid dạng xịt so với dùng đơn trị liệu riêng rẽ ở bệnh nhân
viêm mũi mạn tính.
Thuốc thông
mũi dạng uống cũng được cân nhắc trong điều trị viêm mũi dị ứng, tuy nhiên thuốc
có nhiều tác dụng phụ và khả năng kích thích hệ thần kinh trung ương ở trẻ em.
Thuốc không được khuyến cáo sử dụng cho trẻ nhỏ và nên cân nhắc tỷ lệ rủi ro/lợi
ích khi sử dụng cho trẻ em từ 2 tuổi trở lên.
III. Viêm mũi dị ứng và các bệnh đồng mắc
1. Hen phế quản
Thuốc kháng histamine H1 đường uống: Cetirizine và loratadine là hai thuốc kháng histamine thế
hệ thứ hai được nghiên cứu nhiều nhất để sử dụng đồng thời trong điều trị viêm
mũi dị ứng và hen suyễn. Các nghiên cứu cho thấy thuốc có thể có tác dụng phòng
ngừa sự phát triển của bệnh hen ở bệnh nhân dị ứng. Điều trị sớm cho trẻ bị dị ứng
cho thấy nguy cơ mắc bệnh hen suyễn giảm gần 50% ở những bệnh nhân nhạy cảm với
phấn hoa cỏ, mạt bụi nhà được điều trị bằng cetirizine.
Corticosteroid đường uống: Corticosteroid đường uống thường được
sử dụng ở những bệnh nhân hen suyễn không được kiểm soát tốt bằng thuốc giãn phế
quản và corticosteroid dạng hít. Chúng cũng có hiệu quả đối với các triệu chứng
viêm mũi. Do các tác dụng phụ liên quan đến các loại thuốc này, đặc biệt là khi
thời gian sử dụng ngày càng tăng, steroid đường uống không được khuyến cáo để
điều trị viêm mũi dị ứng thường quy.
Corticosteroid dạng xịt: Steroid dạng xịt được báo cáo là cải thiện
các triệu chứng hen suyễn ở những bệnh nhân đồng mắc viêm mũi dị ứng và hen suyễn
trong các báo cáo gần đây. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc còn cho thấy sự giảm
đáng kể đợt cấp hen và nhu cầu sử dụng thuốc giãn phế quản, cũng như gia tăng tổng
số bệnh nhân hen kiểm soát tốt. Giáo dục bệnh nhân có vai trò quan trọng vì những
bệnh nhân đồng mắc viêm mũi dị ứng và hen cần được đào tạo về cách sử dụng
steroid dạng hít hợp lý. Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có kiến thức tốt giảm
đáng kể triệu chứng hen suyễn và nhu cầu sử dụng thuốc giãn phế quản so với bệnh
nhân dùng steroid dạng xịt mà không được giáo dục về kiến thức.
Thuốc đối kháng thụ thể leukotriene: LTRA (montelukast và zafirlukast), thường
kết hợp với corticosteroid dạng xịt, đã chứng minh lợi ích trong điều trị hen
suyễn và viêm mũi dị ứng trong việc giảm tình trạng viêm ở đường thở. Các khuyến
cáo gần đây không khuyến khích dùng LTRA như phương pháp điều trị đầu tay trong
hen suyễn và viêm mũi dị ứng do các biến cố tâm thần kinh được FDA cảnh báo.
2. Viêm mũi xoang
Viêm mũi xoang
mạn tính đặc trưng bởi tình trạng khoang mũi bị viêm dai dẳng. Viêm mũi dị ứng
được cho là yếu tố kích thích sự phát triển viêm mũi xoang mạn tính, tuy nhiên
các nghiên cứu về mối quan hệ này vẫn chưa rõ ràng. Tuy vậy, việc chẩn đoán và
điều trị dị ứng đi kèm ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn tính là một phương pháp để
làm giảm các triệu chứng và tình trạng viêm mạn tính của bệnh nhân.
3. Ho mạn tính
Ho là phản xạ
làm sạch đường hô hấp dưới khi có kích thích. Viêm mũi dị ứng có liên quan đến
phản xạ ho. Các chất gây dị ứng có thể kích thích niêm mạc mũi, dẫn đến phản xạ
mũi phế quản, co thắt phế quản và gây phản xạ ho. Viêm đường hô hấp trên do
kích hoạt bạch cầu ái toan và giải phóng cytokine cũng có thể dẫn đến viêm đường
hô hấp dưới gây ho. Có sự tương tác phức tạp giữa các tế bào và các cytokine
gây viêm trong bệnh viêm mũi dị ứng.
Bệnh nhân bị
viêm mũi dị ứng và ho mạn tính có thể đồng thời mắc hen suyễn và/hoặc tăng phản
ứng phế quản không đặc hiệu và có thể xuất hiện tình trạng viêm ở đường hô hấp
trên và dưới. Bệnh nhân bị ho mạn tính và viêm mũi dị ứng có thể ho do hen suyễn
tiềm ẩn. Ở những bệnh nhân viêm mũi dị ứng lâu năm, đã có nghiên cứu ghi nhận
các triệu chứng ngoài mũi như ho dai dẳng và khó thở. Có sự tái cấu trúc của đường
hô hấp dưới ở bệnh nhân mắc viêm mũi dị ứng tương tự như hen suyễn, mặc dù ít
nghiêm trọng hơn. Vì thế, viêm mũi dị ứng có thể dẫn dế viêm phế quản, tái cấu
trúc đường thở, gây ho mạn tính một cách độc lập, không phụ thuộc vào hen phế
quản.
Không rõ liệu
điều trị bằng steroid dạng xịt có cải thiện tình trạng ho do viêm mũi dị ứng
hay không. Vài nghiên cứu cho thấy rằng rửa mũi bằng nước muối có thể làm giảm
tình trạng này. Cắt dây thần kinh mũi sau và/hoặc cắt dây thần kinh hầu ở bệnh
nhân viêm mũi dị ứng có thể làm giảm tình trạng ho.
4. Viêm thực quản tăng eosinophil
Viêm thực quản
tăng eosinophil là một tình trạng viêm mạn tính của thực quản do rối loạn chức
năng thực quản. Về mặt mô học cho thấy tình trạng viêm chiếm ưu thế bạch cầu ái
toan. Bệnh nhân mắc viêm thực quản tăng eosinophil thường đi kèm các bệnh dị ứng
như hen suyễn, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn, viêm da cơ địa. Mặc dù các mối
liên quan trên đã được ghi nhận từ lâu, nhưng sinh lý bệnh làm nền tảng cho mối
quan hệ giữa độ nhạy cảm IgE và viêm thực quản tăng eosinophil vẫn chưa rõ
ràng. Đã có nghiên cứu chứng minh rằng viêm mũi dị ứng có liên quan đến việc chẩn
đoán viêm thực quản tăng eosinophil. Sự nhạy cảm với các tác nhân gây dị ứng
trong khoảng thời gian đầu đời có thể dẫn đến sự phát triển của bệnh. Ngoài ra,
cũng đã có ghi nhận về các triệu chứng của bệnh tăng lên trong mùa phấn hoa, đạt
đỉnh điểm vào mùa xuân hè. Liệu pháp miễn dịch đặc hiệu kháng nguyên đã được chứng
minh có hiệu quả trong việc điều trị viêm thực quản tăng eosinophil.
5. Tắc nghẽn đường thở khi ngủ
Viêm mũi dị ứng
tác động tiêu cực đến giấc ngủ và là yếu tố nguy cơ của tình trạng ngưng thở
khi ngủ. Các triệu chứng của bệnh đều góp phần gây ra rối loạn chức năng giấc
ngủ. Tắc nghẽn mũi, hiện diện ở tới 90% bệnh nhân viêm mũi dị ứng có tác động lớn
nhất và là nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng giấc ngủ kém và rối loạn hô hấp
khi ngủ. Tình trạng này có thể do nghẹt mũi tăng lên về đêm đạt đỉnh là vào
sáng sớm. Các cơ chế liên quan giữa viêm mũi dị ứng và rối loạn giấc ngủ: gồm
các cytokine viêm gây mệt mỏi, tác động trực tiếp của triệu chứng, sự kết hợp
giữa tư thế nằm và thay đổi kích thước cuốn mũi, những thay đổi sinh lý bệnh,
cũng như di chứng của rối loạn chức năng thần kinh tự chủ trên bệnh nhân.
Histamine đóng vai trò điều hòa chu kỳ ngủ-thức, cysteinyl leukotrien có liên
quan đến tình trạng gián đoạn giấc ngủ. Bệnh nhân mắc ngưng thở khi ngủ cũng có
tăng các chất trung gian kích hoạt tế bào Th2, làm trầm trọng các triệu chứng của
bệnh và mức độ nghiêm trọng bệnh. Hơn nữa, luồng không khí qua mũi kích thích
hô hấp và cải thiện trương lực cơ giãn nở của đường hô hấp trên thông qua phản
xạ thông khí mũi và cũng kích thích cơ cằm lưỡi, dẫn đến thè lưỡi và cải thiện
độ thông thoáng của đường thở thông qua phản xạ sinh ba-hạ thiệt. Do đó, tắc
nghẽn mũi có thể làm giảm sự kích thích của các cơ quan thụ cảm cơ học này dẫn
đến xẹp đoạn hầu hạ lưu của đường hô hấp trên, dẫn đến ngưng thở khi ngủ.
Giấc ngủ rất
quan trọng đối với tâm trạng, chức năng nhận thức, chức năng miễn dịch và chức
năng nội tiết. Ngưng thở khi ngủ liên quan đến tăng huyết áp, bệnh động mạch
vành, bệnh mạch máu não, rối loạn nhịp tim, kháng insulin, suy tim sung huyết,
tăng huyết áp phổi và các vấn đề về hành vi ở trẻ em. Hơn nữa, ở trẻ em, rối loạn
thông khí khi ngủ có thể tác động tiêu cực đến sự phát triển não bộ, làm suy giảm
tâm thần vận động và hiệu suất nhận thức, đồng thời góp phần gây ra chứng tăng
động. Tình trạng tắc nghẽn mũi trầm trọng dẫn đến sự suy giảm giấc ngủ REM dẫn
đến giảm trí nhớ, nhận thức, và khả năng phục hồi.
Điều trị nghẹt
mũi ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng giúp cải thiện chất lượng giấc ngủ, tình trạng
buồn ngủ ban ngày và chất lượng cuộc sống. Steroid dạng xịt và phẫu thuật mũi
cũng đã được chứng minh là cải thiện chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân viêm mũi dị
ứng, đặc biệt là những người bị tắc nghẽn trước điều trị từ trung bình đến nặng.
Steroid dạng xịt có thể cải thiện giấc ngủ ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng nhờ cải
thiện tình trạng tắc nghẽn mũi và giảm các cytokine gây viêm. Thuốc kháng
histamine H1 thế hệ thứ nhất
vượt qua hàng rào máu não và gây an thần, có thể làm trầm trọng thêm tình trạng
buồn ngủ ban ngày trên bệnh nhân. Do đó các thuốc kháng H1 thế hệ mới được ưa
chuộng hơn, chẳng hạn như fexofenadine và loratadine. Thuốc đối kháng thụ thể
leukotriene chưa chứng minh được lợi ích khi kết hợp với steroid dạng xịt trong
điều trị bệnh.
Thuốc thông
mũi dạng xịt có tác dụng phụ gây kích thích làm mất ngủ, viêm mũi do thuốc và
đánh trống ngực nên cũng không được khuyến cáo để điều trị viêm mũi dị ứng ở bệnh
nhân mắc ngưng thở khi ngủ.