VIÊM MŨI XOANG MẠN TÍNH CÓ POLYP MŨI
Viêm mũi xoang
mạn tính (CRS) là tình trạng viêm niêm mạc mũi và các xoang cạnh mũi kéo dài trên 12 tuần. Đây là bệnh mạn tính thường gặp trong
chuyên khoa Tai mũi họng. Bệnh gặp ở nhiều lứa tuổi, thường tiến triển kéo dài, khó điều trị, dễ tái
phát, có thể gây nhiều biến chứng, ảnh hưởng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
1. Nguyên nhân gây bệnh
Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến viêm mũi xoang mạn tính có polyp mũi. Jackman và Kennedy
phân loại thành 3 nhóm nguyên nhân: Các yếu tố tại chỗ, toàn
thân và môi trường.
Các yếu tố tại
chỗ
- Bất thường
giải phẫu: lệch vẹo vách ngăn, xoang hơi cuốn giữa...
- Viêm xương.
- Khối u: u
nhú mũi xoang, ung thư mũi xoang...
Các yếu tố môi
trường
- Nhiễm khuẩn:
vi khuẩn, nấm, biofilms, siêu kháng nguyên.
- Dị ứng.
- Thuốc, hóa
chất độc hại, ô nhiễm môi trường.
Các yếu tố
toàn thân
- Các bệnh di
truyền, bệnh bẩm sinh: xơ nang, hội chứng Kartagener
- Hội chứng
Samter
- Thiếu hụt hoặc
suy giảm miễn dịch
- Bệnh u hạt
Wegener
- Không dung nạp
Aspirin.
2. Cơ chế bệnh sinh
Có nhiều giả
thuyết về cơ chế bệnh sinh của Polyp mũi xoang (PLMX), dưới đây là 1 số giả
thuyết được nhiều tác giả công nhận.
2.1 Yếu tố viêm mạn tính
Viêm mạn tính
biểu hiện bằng sự hiện diện phong phú, dày đặc các loại tế bào viêm trong mô của
PLMX cũng như trong mô xung quanh. Mỗi loại PLMX biểu hiện
lâm sàng một kiểu viêm mạn tính khác nhau mà cơ chế chưa hoàn toàn sáng tỏ.
• Vai trò của nhiễm khuẩn trong quá
trình viêm mạn tính
Trước đây, nhiễm
khuẩn được coi là tác nhân chủ yếu, tuy nhiên, hiện nay nhiễm khuẩn chỉ được công nhận có vai trò thứ phát sau sự bít tắc các lỗ thông
và sự ứ đọng dịch trong các xoang. Nhiễm khuẩn trở
nên quan trọng hơn trong các bệnh như Cystic fibrosis, Kartagerner... với sự hiện diện phong phú của các tế bào đa nhân trung tính.
Các vi khuẩn
hay gặp là Staphylococcus aureus, Staphylococcus epidermidis, vi khuẩn kị
khí, trực khuẩn Gram âm bao gồm Pseudomonas
aeruginosa, Klebsiella pneumoniae, Proteus mirabilis, Enterobacter Echerichia coli...
• Vai trò của viêm mũi dị ứng
Dị ứng cũng được
xem là 1 trong những nguyên nhân của polyp mũi xoang nguyên phát, có sự thâm nhiễm chủ yếu của bạch cầu ái toan trong polyp, niêm
mạc mũi và trong dịch nhầy mũi và có sự phối hợp giữa PLMX với hen.
2.2. Yếu tố giải phẫu và cơ học
Insuline-like
growth factor-I (IGF-I): yếu tố tăng trưởng tế bào đã được nghiên cứu về sự
phân bố trong các loại mô, tế bào đích, tác dụng tái tạo và tăng
sinh tế bào. Năm 1988,
Petruson bằng kỹ thuật miễn dịch học tế bào đã chứng minh được nồng độ tăng cao
của IGF-I trong lòng các polyp và niêm mạc phù nề của các
bệnh nhân PLMX. Từ đó, giả thuyết về sự tạo
thành PLMX được đưa ra như sau: sau tình trạng viêm hoặc một tổn thương, mọi tế
bào đều cần IGF-I, đưa đến sự tích tụ chất này. Tuy nhiên với
cấu trúc giải phẫu đặc thù của vùng mũi xoang đặc biệt là khe giữa, xoang sàng thuận lợi cho sự
tích tụ IGF-I nồng độ cao, dẫn tới sự tăng phân hóa tế bào và quá sản niêm mạc một cách bất thường.
2.3. Vai trò của các tuyến nhầy trong PLMX
Trong mô
polyp, các lỗ tuyến được phân bố không đồng đều, cũng như không có sự tập trung
riêng biệt ở cuống hay ở phần xa của polyp. Số lượng các
tuyến ít hơn, mật độ khoảng 0.1 và 0.5 tuyến/mm².
Ở niêm mạc mũi
bình thường, các tuyến phân bố đồng đều, mật độ vào khoảng 7 tuyến/mm².
Trong quá
trình hình thành polyp có sự tái cấu trúc các tuyến: Đầu tiên, có sự thoái hóa
trong các ống tuyến dẫn đến sự ứ đọng dịch nhầy trong các tiểu quản
và các ống, tiếp sau đó ống tuyến giãn ra gấp 2-3 lần, làm cho biểu mô chế tiết và các tế bào biến
đổi thành hình lập phương và hình dẹt, mất khả năng chế tiết và dần dần mất chức năng hoàn toàn.
2.4. Vai trò của các tế bào trong PLMX.
• Vai trò của các tế bào cấu trúc và sự
tập trung bạch cầu ái toan
Các nghiên cứu
cho thấy có sự tập trung dày đặc bạch cầu ái toan (BCAT) trong PLMX và không loại mô nào của đường hô hấp trên chứa nhiều BCAT như
trong PLMX.
Giả thuyết cho
rằng, chính các tế bào cấu trúc tại chỗ (TB biểu mô, TB nội mạc và TB sợi) đã
tiết ra các interleukin, yếu tố gây hoại tử u TNF, các yếu tố
kích thích bạch cầu hạt và một số chất hoạt hướng động khác. Các chất này có tác dụng tập trung BCAT
và kéo dài đời sống của chúng. Các tác giả cũng
nhận thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa sự tái phát lâm sàng với sự tập trung
BCAT trong PLMX.
• Vai trò của
các tế bào chứa kháng nguyên ở vùng sinh polyp
Các tác giả đã
dùng phương pháp miễn dịch tế bào để khảo cứu sự phân bố của các tế bào viêm trong PLMX, cho thấy, các tế bào chứa kháng nguyên (đại
thực bào, tương bào...) hiện diện nhiều ở vùng khe mũi giữa, cuốn mũi giữa hơn là cuốn mũi dưới ở
những BN PLMX.
Đại thực bào
tiết nhiều IL-Ib và TNKa có tác dụng điều chỉnh các phân tử bám dính trên biểu
mô, trên nội mạc, làm tập trung thêm tế bào viêm và tăng sự
thoát mạch của tế bào này vào trong mô đệm.
Như vậy, sự
hình thành polyp là hậu quả của sự tăng hoạt của hai loại tế bào chủ yếu trong
polyp: tế bào cấu trúc tạo cytokines và tế bào viêm tạo TNKa,
IL-Ib... 3. Triệu chứng lâm sàng
3.1. Triệu chứng cơ năng
• Ngạt mũi tăng
dần, mỗi bên hoặc hai bên.
• Chảy nước mũi
hoặc chảy dịch mũi sau hoặc cả hai.
• Đau nhức vùng
mặt hoặc đau đầu.
• Giảm ngửi hoặc
mất ngửi, có thể đi kèm là ảnh hưởng đến chức năng vị giác Rối loạn ngửi
xảy ra sớm là đặc trưng của viêm mũi xoang mạn có tăng BCAT so với nhóm không tăng BCAT.
- Ngoài ra, BN
có cảm giác căng tức mũi, mệt mỏi, giảm tập trung trong công việc, ngủ ngáy, khịt
khạc đờm buổi sáng, ho, hơi thở hôi….
3.2. Đặc điểm nội soi
- Giai đoạn đầu
thấy niêm mạc cuốn giữa, khe mũi giữa phù nề, có thể thấy polyp nhỏ thường xuất
phát từ ngách giữa. Polyp có cuống hay không có cuống, có
màu hồng nhạt, trắng trong hoặc hơi vàng, mật độ mềm.
Nếu có nhiều polyp thì chúng có hình dạng như chùm nho và có thể bít kín hốc mũi. Dùng que thăm dò thấy polyp mềm, không đau, ít
chảy máu.
- Polyp vị trí
thường ở 2 bên mũi. Polyp thường thường xuất phát chủ yếu từ khe giữa, xoang
sàng trước, cuốn giữa. Polyp khe trên, cuốn trên, khe bướm
sàng ít gặp hơn, nếu polyp nhỏ, khu trú khó quan sát dưới nội soi, và thường bị che lấp bởi những khối
polyp từ khe giữa và cuốn giữa.
- Polyp mũi một
bên thường có kèm theo dị hình một bên, polyp đơn độc Killan hoặc polyp do viêm xoang nấm dị ứng.
- Ngoài ra có
thể quan sát thấy dịch mủ hoặc dịch nhầy ở khe giữa hoặc khe trên cũng như các
bất thường giải phẫu như bất thường của cuốn giữa, mỏm móc,
bóng sàng hay vách ngăn mũi...
- Phân độ
polyp mũi: Meltzer phân độ polyp mũi thành 4 độ: I, II, III, IV
4. Triệu chứng cận lâm
sàng
4.1. Chẩn đoán hình ảnh
Phim chụp CT
scanner theo 3 bình diện axial, coronal, sagital không những cho phép nhận định
tình trạng tổn thương ở mũi xoang, mà còn cho phép đánh
giá đầy đủ, chi tiết các cấu trúc giải phẫu của hốc mũi tạo điều kiện lên kế hoạch phẫu thuật.
- Hình ảnh viêm xoang: Trên phim có thể bắt gặp các hình ảnh như sau:
• Lấp đầy xoang:
toàn bộ xoang chứa tổ chức đồng nhất.
• Lấp một phần
xoang: hình ảnh mức khí - dịch, hình ảnh mặt trời mọc.
• Dầy niêm mạc
toàn bộ: dầy niêm mạc xoang toàn bộ ví như hình ảnh cùi dừa.
• Dày niêm mạc
khu trú: một phần niêm mạc xoang dầy.
• Các chất chứa
trong khoang là dịch nhầy, mủ, niêm mạc thoái hóa hay polyp.
- Hình ảnh Polyp:
- Polyp xuất
hiện trên CLVT là những khối mô mềm, tỷ trọng đồng nhất, có bề mặt lồi từ niêm mạc xoang, tạo với thành xoang góc nhọn hoặc góc tù.
Trong hốc mũi, polyp nhìn thấy được là những phần lồi ra ở phía dưới của khối mờ.
- Trường hợp
polyp có tỷ trọng cao hơn so với niêm mạc dầy xung quanh và chất tiết, làm cho chúng có vẻ sáng hơn CLVT. Tuy nhiên dấu hiệu này có thể
bị đảo ngược nếu chất tiết bị cô đặc.
- Một vài trường
hợp có thể thấy một cuống mỏng nối phần polyp với niêm mạc bề mặt.
- Polyp không
có tính chất ăn mòn xương, tuy nhiên trong một số trường hợp polyp có thể làm biến đổi thành xoang như làm mỏng hoặc mất vách ngăn giữa
các xoang sàng, đẩy vách mũi xoang hoặc xương cuốn.
- Khi tiêm thuốc
cản quang tĩnh mạch, polyp là khối không ngấmthuốc. Tuy nhiên niêm mạc xung quanh có thể ngấm thuốc cản quang tạo nên hình ảnh viền
tăng đậm độ mỏng, đều. Dấu hiệu này giúp phân biệt
với khối ngấm thuốc hoàn toàn của u không hoại tử hoặc khối ngấm thuốc không đều của u hoại tử.
- PLMX có tổn
thương nấm (như trong viêm xoang dị ứng nấm): CLVT có dấu hiệu gợi ý hình ảnh tăng mật độ cản quang giữa khối mờ. Thành xoang có thể
bị biến đổi như giãn nở, đẩy dồn thậm chí bị
tiêu xương thành xoang.
- Các dị hình khe giữa và hốc mũi.
Dựa vào phim
CLVT, có thể phát hiện những dị hình khe giữa và hốc mũi ảnh hưởng đến PHLN. Nhưng dị hình này có thể không phát hiện được qua nội soi
do bị che lấp bởi khối polyp.
4.2. Mô bệnh học
• Đại thể: Khối
phù nề, bề mặt nhẵn sáng màu hoặc tím nhạt màu, mật độ mềm.
• Vi thể: Có sự
biến đổi ở các mức độ khác nhau của lớp niêm mạc biểu mô và lớp dưới niêm mạc. Lớp niêm mạc biểu mô có thể còn cấu trúc trụ giả tầng
có lông chuyển, nhưng thông thường bị biến đổi
sang dạng lát dẹt hoặc lát tầng, dày màng đáy. Lớp mô đệm dưới niêm mạc phù nề
và bị thâm nhiễm bởi các tế bào viêm, tế bào xơ, mạch máu và
các tuyến có thể tăng hoạt động, giãn ra thành nang.
Tuỳ theo sự có
mặt, ưu thế của các thành phần tế bào trong lớp dưới niêm mạc mà người ta phân thành polyp BCAT và polyp không tăng BCAT.
5. Chẩn đoán phân biệt.
• U nhú đảo ngược.
• U xơ mạch vòm
mũi.
• Thoát vị não-
màng não vào hốc mũi.
• U ác tính.
6. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán xác định: Theo EPOS 2020.
- Thời gian: Triệu chứng kéo dài trên 12 tuần trong đó phải
có ít nhất 2 triệu chứng dưới đây và phải có ít nhất 1 triệu chứng chính: Ngạt
mũi, chảy mũi, đau nặng mặt, giảm hoặc mất ngửi.
- Và có sự hiện
diện của polyp mũi (qua nội soi và CĐHA).
7. Điều trị.
Nguyên tắc
• Phẫu thuật
đóng vai trò quan trọng.
• Không có
phương pháp chung cho tất cả BN, mà khác biệt tuỳ từng trường hợp.
• Mục đích: giảm
viêm niêm mạc, kiểm soát nhiễm trùng, tái lập hệ vận động lông chuyển.
Nội khoa
Kháng sinh
Thuốc kháng
sinh ngắn hạn có ít vai trò trong điều trị của polyp mũi ngoại trừ nhiễm trùng
thứ cấp do vi khuẩn. Tuy nhiên, thuốc kháng sinh như macrolide hoặc
doxycycline có thể được sử dụng, chủ yếu cho
các đặc tính kháng viêm của chúng, giống với nhiều loại thấy với
corticosteroid. Corticosteroid
+ Đường toàn thân ngắn hạn
Một đợt điều
trị ngắn hạn (7-21 ngày) corticosteroid toàn thân, dẫn đến giảm phản ứng viêm,
giảm đáng kể tổng điểm triệu chứng và điểm số polyp mũi ở bệnh
nhân VMXMT có polyp mũi.
+ Tại mũi
Có nhiều
phương thức đưa thuốc vào mũi được khuyến cáo: xịt mũi, nhỏ mũi, rửa mũi, đặt
thuốc vào bông mũi… Trong đó thuốc xịt mũi thường xuyên được sử
dụng nhất.
Có các bằng chứng
chất lượng cao cho thấy việc sử dụng thuốc corticosteroid xịt mũi lâu dài là hiệu quả và an toàn để điều trị cho bệnh nhân có polyp.
Chúng có tác động làm giảm các triệu chứng mũi, làm
giảm kích thước polyp mũi,ngăn ngừa tái phát polyp sau phẫu thuật, cải thiện chất
lượng cuộc sống. Corticosteroid mũi được dung nạp tốt, hầu
hết các tác dụng phụ được báo cáo có mức độ nghiêm
trọng nhẹ đến trung bình. Có nhiều loại thuốc corticoid xịt mũi được sử dụng: Benita, Mesaca, Adacast…
Kháng histamin
Thuốc làm giảm
đáng kể tình trạng hắt hơi, sổ mũi và tắc nghẽn so với giả dược trong điều trị
sau phẫu thuật polyp tái phát, nhưng không ảnh hưởng đến kích
thước polyp.
Ở những bệnh
nhân VMXMT có polyp mũi đồng thời kết hợp với dị ứng mũi thuốc kháng histamin có thể được chỉ định.
Thuốc co mạch
Việc sử dụng
thuốc co mạch tại chỗ để giảm phù nề niêm mạc bằng cách gây co mạch. Tuy nhiên,
sử dụng kéo dài có thể dẫn đến viêm mũi và ngạt mũi khi
ngừng sử dụng.
Sử dụng thuốc
co mạch không cải thiện đến kích thước polyp mũi.
Xịt rửa mũi
Xịt rửa mũi là
phương thức điều trị phổ biến, hiệu quả trong điều trị viêm mũi xoang mạn tính
có polyp.
Xịt rửa mũi
đem lại nhiều lợi ích bao gồm:
• Loại bỏ làm sạch
dịch nhầy dư thừa.
• Loại bỏ các
tác nhân môi trường như bụi bẩn dị nguyên.
• Hỗ trợ thanh
thải niêm mạc.
Nhiều nghiên cứu
đã chứng minh xịt rửa mũi cải thiện triệu chứng, điểm nội soi, điểm CLVT, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Có thể dùng
các loại nước muối biển sâu để xịt rửa mũi: Xisat, xypenat.
Điều trị sinh học
VMX mạn tính
polyp mũi 2 bên tái phát sau phẫu thuật và cần thêm ít nhất 3 trong 5 tiêu chuẩn
sau:
+ Type 2: BCAT
trong mô ≥ 10/hpf hoặc BCAT trong máu ≥ 250 hoặc IgE ≥100.
+ Cần
corticoid toàn thân hoặc chống chỉ định steroids toàn thân: cần dùng ≥ 2 đợt/năm
hoặc liều thấp kéo dài > 3 tháng.
+ Ảnh hưởng chất
lượng cuộc sống: SNOT-22 ≥ 40. + Mất ngửi. + Phối hợp hen
phế quản: cần dùng corticosteroids dạng hít thường xuyên.
Ngoại khoa
Mục đích:
• Lấy hết khối
polyp.
• Mở rộng các
xoang tổn thương phục hồi lại sự thông khí và dẫn lưu mũi xoang.
• Tạo lối đưa
thuốc vào tại chỗ.
Chỉ định:
• Polyp đơn độc
Killian, polyp trong viêm mũi xoang dị ứng nấm (AFRS).
• Điều trị nội
khoa tích cực từ 6-12 tuần không đạt hiệu quả, điểm SNOT-22≥20.
• Có các biến chứng.
Các loại phẫu
thuật:
• Phẫu thuật nội
soi mũi xoang tối thiểu.
• Mở xoang hàm.
• Mở xoang sàng
– hàm.
• Mở xoang sàng
hàm trán bướm.