PHỤC HỒI CHỨC NĂNG SAU BỎNG

1. Giới thiệu

Bỏng là gì? Bỏng là tổn thương da và tổ chức dưới da do nhiệt độ, hoá chất và các tác nhân vật lý khác.

Tỷ lệ bỏng: ở Việt Nam chưa có thống kê chính xác nhưng tỷ lệ rất cao do bỏng thường gặp trong đời sống hàng ngày của nhân dân.

Các vấn đề thường xảy ra mà người bị bỏng phải đối mặt

- Đau: da là nơi chứa nhiều thần kinh cảm giác nên khi da bị tổn thương thì rất đau. Người bị bỏng cần được giảm đau bằng nhiều biện pháp.

- Nhiễm trùng: khi mới bị vết bỏng vô khuẩn, sau đó trong quá trình sơ cứu, vận chuyển làm cho vết bỏng bị nhiễm khuẩn. Do vậy cần đề phòng nhiễm trùng khi sơ cứu và vận chuyển.

- Choáng (sốc): nếu bỏng nặng, bỏng sâu thì dễ bị tử vong ngay trong 48 giờ đầu do huyết tương thoát ra ngoài mạch máu mang theo chất điện giải, protein dẫn đến vùng bỏng bị sưng nề và gây sốc.

- Các vấn đề về da: bỏng lâu lành làm cho da bị nhiễm trùng. Nhiễm trùng kéo dài có thể biến thành ung thư, sẹo dính, sẹo xấu, co rúm da.

- Biến dạng khớp, hạn chế vận động: sẹo bỏng làm co rút các khớp dẫn đến biến dạng khớp và hạn chế vận động.

- Các rối loạn tâm lý do sẹo xấu, đặc biệt các vùng da hở, vùng thẩm mĩ như mặt, cổ, ngực...

2. Nguyên nhân gây bỏng và phòng ngừa

2.1. Nguyên nhân

- Do sức nóng ướt: nước sôi, hơi nước..

- Do sức nóng khô: lửa xăng, dầu hoả, bom cháy, nhà cháy...

- Do hoá chất: acid, kiềm, vôi.

- Do điện giật.

- Do lạnh.

- ở các nước tiên tiến còn do bức xạ nguyên tử. ở Việt Nam hiện nay chưa có nguyên nhân này nhưng nguyên nhân do vật nổ vẫn còn xảy ra.

2.2. Phòng ngừa

Tuyên truyền giáo dục tại cộng đồng phòng ngừa các tai nạn trong sinh hoạt, có ý thức bảo vệ an toàn tránh các nguy cơ như nước sôi, hơi nóng, hoá chất, an toàn sử dụng điện...

3. Can thiệp phục hồi chức năng

3.1. Can thiệp y học, phục hồi chức năng

+ Xử trí đầu tiên khi bị bỏng

– Nhanh chóng loại bỏ nguyên nhân bỏng hoặc tránh xa vùng đang cháy hoặc hoá chất.

– Cởi áo quần nếu là bỏng do hoá chất. Chú ý người giúp cẩn thận để không bị dính hoá chất.

– Rửa vết bỏng bằng nước lạnh. Sau đó để hở không đắp bất cứ vật gì lên vết bỏng.

– Đưa người bị bỏng đi khám bác sỹ hoặc đến bệnh viện ngay.

+ Đưa người bỏng đến cơ sở y tế gần nhất

– Nếu nhẹ đến trạm y tế.

– Nếu nặng đến bệnh viện gần nhất.

– Rất nặng đến bệnh viện chuyên khoa, có khoa bỏng hoặc khoa ngoại

+ Điều trị trong bệnh viện, chăm sóc điều dưỡng

– Chống sốc: truyền dịch, truyền máu.

– Chống tăng đạm huyết: uống hoặc truyền Natribicarbonat.

– Chống đau bằng các thuốc giảm đau.

– Chống nhiễm khuẩn: kháng sinh, chống uốn ván.

– Các thuốc trợ tim, thuốc bổ.

– Chế độ ăn lỏng những ngày đầu sau đó ăn bình thường.

– Điều trị vết bỏng: rửa sạch vết bỏng, thay hàng ngày, phun kháng sinh, Panthenol... Nếu có hoại tử cắt lọc loại bỏ tổ chức hoại tử.

– Nếu có ghép da: chăm sóc sau ghép da cẩn thận để mảnh ghép da sống và không bị nhiễm trùng.

+ Vật lý trị liệu

– Mục đích: ngăn ngừa biến chứng hô hấp, co rút khớp các hoạt động phục hồi chức năng giúp gia tăng tuần hoàn và phục hồi các chức năng sinh hoạt hàng ngày.

Phương pháp:

1) Với người bỏng độ 1, 2 trên diện tích không rộng lớn, biện pháp phục hồi chức năng chủ yếu là tập vận động chủ động để duy trì lực cơ và tầm vận động khớp vùng bị bỏng.

2) Với người bỏng nặng, tình trạng toàn thân kém phải nằm ở giường, trong vòng 48 giờ đầu cần đặt tư thế đúng, thở sâu và ho có hiệu quả, nếu có nhiều đờm dãi phải vỗ rung lồng ngực nhưng tránh vùng bị bỏng. 3

) Sau 48 giờ khuyến khích người bệnh ngồi dậy ngày 3 lần để tập thở và ho, vận động chủ động, nhẹ nhàng, chuẩn bị tập đi.

4) Nếu người bệnh được điều trị theo phương pháp băng kín, dùng nước ấm để làm bong các mô chết, làm mềm da.

5) Khi vết bỏng lành hoàn toàn, để tránh sẹo xấu, sẹo dính cần kết hợp vận động với siêu âm, phá sẹo dính.

6) Vật lý trị liệu sau ghép da: sau ghép da để miếng da ghép sống và dính với mô hạt. Muốn vậy phải bất động 5 - 7 ngày đối với vùng không chịu trọng lực, 10 - 15 ngày đối với vùng chịu trọng lực hoặc vùng khớp.

+ Trong thời gian bất động, tập gồng cơ vùng bất động, tập chủ động những phần còn lại.

+ Sau thời gian bất động cho người bệnh vận động tích cực sớm.

– Hoạt động trị liệu: các bài tập liên quan đến hoạt động chức năng, tập khéo léo bàn tay.

– Phục hồi các chức năng sinh hoạt hàng ngày: người bị bỏng cần luyện tập phục hồi các chức năng sinh hoạt như ăn uống, tắm rửa, vệ sinh cá nhân và các hoạt động khác trong gia đình. Những chức năng này rất cần thiết cho cuộc sống.

– Phẫu thuật: khi khớp bị hạn chế vận động do sẹo bỏng, phẫu thuật chỉnh hình có thể cần thiết. Thông thường, người ta lấy da từ phần khác của cơ thể để nối vào phần da thiếu ở khớp bị bỏng. Một số ca bỏng nặng làm hỏng các ngón tay. Phẫu thuật ngón cái, chuyển ngón tay có thể mang lại chức năng cho bàn tay.

– Nẹp chỉnh hình: để đề phòng co rút biến dạng cần phải sử dụng để các khớp ở tư thế tốt.

– Đề phòng các biến dạng thứ phát bằng cách đặt tư thế người bệnh đúng, tuỳ theo vị trí để đặt:

1)                     ở cổ: cần giữ cổ ở tư thế duỗi quá bằng cách kê gối dưới vai để tránh biến dạng gập cổ.

2) ở cột sống: ngăn ngừa biến dạng cong vẹo cột sống cho người bệnh bỏng một bên lưng hay một bên ngực, phòng biến dạng gù lưng cho người bệnh nếu bị bỏng ở ngực hoặc ở bụng, phòng ưỡn lưng cho người bệnh bị bỏng vùng thắt lưng.

3) Nách: nếu cử động dang vai giới hạn, phải để vai dang 90° trong tư thế nằm bằng cách dùng máng nâng đỡ hoặc treo tay

4) Nếu bị bỏng ở khớp khuỷu và khớp gối: duỗi hoàn toàn để tránh (phòng ngừa) hình thành sẹo co rút trong tư thế gập.

5) Bị vùng khớp háng: ngăn ngừa biến dạng gập - áp bằng cách duy trì tư thế duỗi thẳng và dang 60°.

6) Cổ chân và bàn chân: để vuông góc 90°.

7) Cổ tay, bàn tay: kê cao bàn tay để giảm phù nề, các ngón tay để tư thế duỗi tối đa.

8) Bị bỏng ở ngực làm giảm khả năng giãn nở và ảnh hưởng đến hô hấp, nên để người bệnh tập thở sâu, duy trì vai ở tư thế dạng.

9) Bị ở mặt: cho người bệnh thường xuyên tập cơ mặt.

+ Thuốc điều trị bỏng: Khi mới bị bỏng sử dụng các thuốc chống sốc, chống đau, chống nhiễm khuẩn, chống tăng đạm huyết. Sau này cần 1 số thuốc dạng keo xịt hoặc mỡ kháng sinh.