ĐẬU MÙA KHỈ

Tác nhân gây bệnh

Virus đậu mùa khỉ là một loại virus DNA sợi đôi có vỏ bọc thuộc giống Orthopoxvirus của họ Poxviridae. Nhiều loài động vật khác nhau đã được xác định là nhạy cảm với virus đậu mùa khỉ, bao gồm sóc dây, sóc cây, chuột túi Gambian, ký sinh, động vật linh trưởng không phải người và các loài khác.

Đường lây truyền

Lây truyền từ động vật sang người có thể xảy ra khi tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch cơ thể, hoặc các tổn thương ở da hoặc niêm mạc của động vật bị nhiễm bệnh. Các ổ chứa tự nhiên của bệnh đậu mùa khỉ vẫn chưa được xác định, mặc dù rất có thể là loài gặm nhấm. Ăn thịt không được nấu chín kỹ và các sản phẩm động vật khác của động vật bị nhiễm bệnh là một yếu tố nguy cơ.

Lây truyền từ người sang người có thể do tiếp xúc gần với dịch tiết đường hô hấp, tổn thương da của người bị bệnh hoặc các đồ vật bị ô nhiễm gần đây. Sự lây truyền qua các hạt hô hấp dạng giọt thường đòi hỏi phải tiếp xúc trực diện lâu dài, điều này khiến nhân viên y tế, các thành viên trong gia đình và những người tiếp xúc gần khác của những ca bệnh đang hoạt động có nguy cơ cao hơn. Tuy nhiên, chuỗi lây truyền dài nhất được ghi nhận trong một cộng đồng đã tăng trong những năm gần đây từ 6 đến 9 trường hợp lây nhiễm từ người sang người liên tiếp. Điều này có thể phản ánh sự suy giảm khả năng miễn dịch ở tất cả các cộng đồng do ngừng tiêm phòng bệnh đậu mùa. Sự lây truyền cũng có thể xảy ra qua nhau thai từ mẹ sang thai nhi (có thể dẫn đến bệnh đậu khỉ bẩm sinh) hoặc khi tiếp xúc gần trong và sau khi sinh. Mặc dù tiếp xúc thân thể gần gũi là một yếu tố nguy cơ lây truyền được biết đến nhiều, nhưng tại thời điểm này vẫn chưa rõ liệu bệnh đậu khỉ có thể lây truyền cụ thể qua đường tình dục hay không. Cần có các nghiên cứu để hiểu rõ hơn về nguy cơ này.

Triệu chứng

Thời kỳ ủ bệnh (khoảng thời gian từ khi nhiễm bệnh đến khi bắt đầu có triệu chứng) của bệnh đậu mùa khỉ thường từ 6 đến 13 ngày nhưng có thể từ 5 đến 21 ngày.

Nhiễm trùng có thể được chia thành hai giai đoạn:

Thời kỳ xâm lấn (kéo dài từ 0–5 ngày) đặc trưng bởi sốt, nhức đầu dữ dội, nổi hạch (sưng hạch), đau lưng, đau cơ (đau cơ) và suy nhược dữ dội (thiếu năng lượng). Nổi hạch là đặc điểm khác biệt của bệnh đậu mùa khỉ so với các bệnh khác mà ban đầu có thể có biểu hiện tương tự (bệnh thủy đậu, bệnh sởi, bệnh đậu mùa)

Phát ban trên da thường bắt đầu trong vòng 1-3 ngày sau khi xuất hiện sốt. Phát ban có xu hướng tập trung nhiều hơn ở mặt và tứ chi hơn là ở thân. Nó ảnh hưởng đến mặt (trong 95% trường hợp), và lòng bàn tay và lòng bàn chân (trong 75% trường hợp). Cũng bị ảnh hưởng là màng nhầy miệng (trong 70% trường hợp), cơ quan sinh dục (30%), và kết mạc (20%), cũng như giác mạc. Phát ban tiến triển theo trình tự từ dát (tổn thương có nền phẳng) đến sẩn (tổn thương cứng hơi nhô cao), mụn nước (tổn thương chứa đầy dịch trong), mụn mủ (tổn thương chứa đầy dịch vàng) và đóng vảy khô và bong ra. Số lượng tổn thương thay đổi từ vài đến vài nghìn. Trong một số trường hợp nghiêm trọng, các tổn thương có thể liên kết với nhau cho đến khi các mảng da lớn bong ra.

Bệnh đậu mùa khỉ thường là một bệnh tự giới hạn với các triệu chứng kéo dài từ 2 đến 4 tuần. Các trường hợp nghiêm trọng xảy ra phổ biến hơn ở trẻ em và có liên quan đến mức độ phơi nhiễm vi rút, tình trạng sức khỏe của bệnh nhân và tính chất của các biến chứng. Sự thiếu hụt miễn dịch tiềm ẩn có thể dẫn đến kết quả tồi tệ hơn. Mặc dù trước đây việc tiêm phòng bệnh đậu mùa có tác dụng bảo vệ nhưng ngày nay những người dưới 40 đến 50 tuổi (tùy theo quốc gia) có thể dễ bị bệnh đậu mùa hơn do các chiến dịch tiêm phòng bệnh đậu mùa trên toàn cầu đã ngừng hoạt động sau khi loại trừ căn bệnh này. Các biến chứng của bệnh đậu mùa khỉ có thể bao gồm nhiễm trùng thứ phát, viêm phế quản phổi, nhiễm trùng huyết, viêm não và nhiễm trùng giác mạc kèm theo mất thị lực. Mức độ nhiễm trùng không triệu chứng có thể xảy ra vẫn chưa được biết.

Tỷ lệ tử vong do bệnh đậu mùa ở khỉ trước đây dao động từ 0 đến 11% trong dân số nói chung và cao hơn ở trẻ nhỏ. Trong thời gian gần đây, tỷ lệ tử vong theo ca dao động trong khoảng 3-6%.

Nguồn:

https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/monkeypox?gclid=Cj0KCQjw94WZBhDtARIsAKxWG-89_JBL4T6rFHsQceqXLGFeUGADgqYwUDGBf89w6AgjIkpH1CkzBwIaAqwMEALw_wcB
Người dịch: BS. Nguyễn Thị Như Ly, Khoa Y – Đại học Duy Tân